SƯU TẬP NHỮNG KIẾN THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN ÂM NHẠC VIỆT NAM THỜI 4.0

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

Thứ Hai, 27 tháng 11, 2023

Một số biện pháp đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm lứa tuổi mẫu giáo nhỡ trong trường mầm non

 Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm lứa tuổi mẫu giáo nhỡ trong trường mầm non

PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU

     1. Mục đích của sáng kiến.

     * Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm: 

      Nghiên cứu và ứng dụng “Một số biện pháp đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm lứa tuổi MGN 4-5 tuổi trong trường mầm non” ®Ó giúp giáo viên hiểu rõ hơn về cách tiếp cận giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

- Giúp giáo viên vận dụng phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm vào việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non một cách hiệu quả đảm bảo chất lượng và sự phát triển toàn diện phù hợp với từng cá nhân trẻ.

- Giúp giáo viên ý thức được tầm quan trọng của giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Tôn trọng sự khác biệt của trẻ, tích cực thực hiện giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

     * Tính đổi m ới của sáng kiến kinh nghiệm:

     Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm hiện nay không chỉ là phong trào mà còn là một yêu cầu bắt buộc với mọi giáo viên. Thông thường, ở các giờ thao giảng hay dự thi GV giỏi, tất cả GV đều nỗ lực trong việc đổi mới phương pháp dạy học, tuy nhiên không phải giáo viên nào nào cũng thành công như mong muốn. Trên thực tế,  thực hiện các hoạt động học tập vui chơi vẫn rơi vào tình trạng giáo viên làm trung tâm. Thực hiện và ứng dụng bản sáng kiến: “Một số biện pháp đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm lứa tuổi MGN 4-5 tuổi trong trường mầm non” sẽ mở ra một hướng đi mới cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.

     * Ưu điểm nổi bật của sáng kiến kinh nghiệm.

     Tích cực hoá hoạt động của trẻ, trẻ được tự khám phá, trẻ được trải nghiệm bằng các giác quan, chú trọng giáo dục cá nhân kết hợp giáo dục trong nhóm, lớp giữa hoạt động chung và hoạt động góc, tăng cường giao tiếp giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ.

     Giáo viên linh hoạt, sáng tạo, không bị gò bó khi tổ chức các hoạt động cho trẻ nhất là hoạt động chung có mục đích học tập và hoạt động góc chơi, giáo viên có thể sử dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm phong phú các hoạt động của trẻ, gây được sự chú ý của trẻ, trẻ ham học, nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, giao tiếp ngôn ngữ tình cảm.

     Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non.

     2. Đóng góp của bản sáng kiến kinh nghiệm

     Đóng góp về mặt khoa học: Đổi mới được phương pháp giáo dục mầm non theo quan điểm tiếp cận giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

     Đóng góp về mặt thực tế: Giúp giáo viên linh hoạt, sáng tạo, không bị gò bó khi tổ chức các hoạt động cho trẻ nhất là hoạt động chung có mục đích học tập và hoạt động góc chơi, giáo viên có thể sử dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để làm phong phú các hoạt động của trẻ, gây được sự chú ý của trẻ, trẻ ham học, nghiên cứu, tìm tòi, khám phá, phát triẻn khả năng giao tiếp, phát triển ngôn ngữ và tình cảm.

     Tập thể giáo viên đã nhận thức được việc đổi mới phương pháp dạy học là rất cần thiết trong việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục bậc học mầm non.

     Trẻ hứng thú tham gia hành động không mệt mỏi và hăng say làm việc mong hoàn thành bài tập cô giáo…kết quả được nâng lên rõ rệt.

Phần II: Nội dung trọng tâm

Chương 1:

Cơ sở khoa học của đề tài

     1. Cơ sở lý luận của sáng kiến.

     Giáo dục mầm non, nói về đổi mới hình thức tổ chức, đổi mới phương pháp dạy học cho trẻ mầm non, không ít quan điểm cho rằng "Trẻ nhỏ biết gì mà dạy", "mấy đứa trẻ con dạy hát, dạy múa, kể chuyện là xong, hay " mầm non chỉ chăm sóc tốt là được, mầm non đâu cần đổi mới phương pháp,....”

     Các nhà giáo dục đã nghiên cứu thực nghiệm và chứng minh: Trẻ lọt lòng mẹ đã sớm hình thành con đường học tập. Học tập với trẻ mầm non không phải cứ  là học “toán”, học “văn”…. học của trẻ mầm non rất đơn giản, học của trẻ mầm non là học để tiếp cận với nền văn minh của xã hội, học của trẻ mầm non: là học tên gọi của mọi người và đồ vật xung quanh; là học cách sử dụng đúng thiết bị đồ dùng hàng ngày; là học cách dùng, cách sử dụng thiết bị vệ sinh cá nhân, đồ dùng vệ sinh chung, đồ dùng sinh hoạt, đồ dùng phục vụ ăn ngủ sao cho đúng, phù hợp với kinh nghiệm của người lớn - dù chỉ là học cách mở vòi nước, tắt vòi nước; là học cách sắp xếp đồ dùng cá nhân trên giá hoặc trong tủ một cách nhanh nhất, gọn gàng nhất; là tìm hiểu về đồ dùng hàng ngày có chất liệu dễ vỡ, hay dễ hỏng và biết cách giữ gìn an toàn cho bản thân khi sử dụng; là tập nói và sử dụng ngôn ngữ tự kể về mình, kể lại những việc mình đã làm, đã từng thấy hoặc tưởng tượng ra bằng ngôn ngữ của mình một cách mạch lạc nhất; là tìm hiểu cơ thể mình có những gì, cần những gì, vệ sinh các bộ phận trên cơ thể như thế nào để biết tự vệ sinh cơ thể, biết yêu quý, giữ gìn và tự bảo vệ bản thân ở mức đơn giản nhất; là tự trang trí làm đẹp cho bản thân, tự trưng bày, làm sạch, làm đẹp cho lớp của mình; học của trẻ mầm non là "Tái tạo" thực tế cuộc sống gần gũi xung quanh trẻ thông qua việc chơi các trò chơi vv… phù hợp theo độ tuổi mầm non và muốn trẻ mầm non được an toàn tuyệt đối thì không thể tách “ học” riêng và “chăm sóc” riêng biệt. Có thể thấy rõ, “học” của trẻ mầm non gắn liền với chăm sóc trẻ, và việc tập cho trẻ làm quen với “học” ở mỗi giai đoạn phát triển sinh lý lại là tiền đề cho sự phát triển của cơ thể trẻ ở giai đoạn tiếp theo.

     Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân, những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, trí lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân.

     Trẻ tiếp thu kiến thức không phải chỉ thông qua kênh nghe, kênh nhìn mà còn phải được tham gia thực hành ngay trên lớp hoặc được vận dụng, trao đổi thể hiện suy nghĩ, chính kiến của mình. Khả năng thu nhận kiến thức sẽ tăng lên 90% khi trẻ sử dụng kiến thức đã có được dạy lại cho các bạn học của mình.

     Điều này cho thấy tác dụng tích cực của việc dạy học lấy trẻ làm trung tâm.

     * Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là: 

- Dựa trên nhu cầu hứng thú, khả năng và thế mạnh của từng trẻ, tin tưởng rằng mỗi trẻ đều có thể thành công và tiến bộ.

- Tạo nhiều cơ hội cho trẻ học bằng nhiều hình thức khác nhau gồm cả hoạt động vui chơi.

- Vui chơi cung cấp cho trẻ nhiều cơ hội để học tập như khám phá, sáng tạo, giả vờ, tưởng tượng và tương tác với bạn bè.

- Phản ánh được mức độ phát triển của từng cá nhân trẻ và xây dựng dựa trên những gì trẻ đã biết và có thể làm.

     * Đặc điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm

- Trẻ nào cũng được hỗ trợ để tham gia.

- Trẻ có được sự khuyến khích để tạo ra sự lựa chọn.

- Trẻ được khuyến khích để giải quyết vấn đề.

- Trẻ được khuyến khích và hỗ trợ để hợp tác và làm việc cùng nhau.

- Giáo viên xác định được và thỏa mãn những hứng thú, hiểu biết, ý kiến và kỹ năng của trẻ, mở rộng việc học cho từng trẻ.

- Tạo cơ hội và thời gian cho trẻ được học tập, cung cấp nhiều cơ hội khác nhau để trẻ khám phá trải nghiệm và diễn đạt những gì trẻ biết và hiểu.

Con người chỉ thích nghe những cái mà bản thân chưa biết, khám phá những điều chưa hiểu, trẻ em cũng thế chỉ tích cực khám phá, tìm tòi, thích học cái chưa có, nên muốn trẻ học tập tích cực giáo viên không dạy trẻ cái mà trẻ đã biết mà phải dạy cái trẻ cần, điều mà trẻ thích nghe. Nói như một vị cán bộ quản lý ngành: “Nó đòi hỏi thay đổi nhận thức về sự trao đổi chủ thể trong một tiết dạy và phục vụ cho điều ấy là biết bao công sức: Làm quen với công nghệ thông tin và những phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng được đa dạng các hình thức kiểm tra đánh giá, tiếp cận với những đòi hỏi mới về kiến thức cũng như tâm lý học của trẻ... Hãy nhìn vào những đôi mắt trẻ thơ! Chúng ta sẽ thấy sự háo hức, niềm khát khao hiểu biết vô bờ. Chúng đang mong đợi các cô giáo truyền cho cách tự phát hiện, chiếm lĩnh và sử dụng tri thức một cách tự nhiên nhất, giản đơn nhất và cũng khó quên nhất.

     2. Cơ sở thực tiễn của sáng kiến.

     Ngày nay việc nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo dục và đào tạo, đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học tập, mà phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giáo viên, trong việc tổ chức hoạt động học tập, nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học.

     Nghị quyết TW2 Ban chấp hành TW khoá VIII  đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng của ngành GD& ĐT là: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học”.

     Trong những năm qua cùng với sự phát triển của các bậc học khác, bậc học mầm non là một bậc học đã có nhiều đóng góp to lớn, thực sự có trách nhiệm gieo những hạt giống tốt, mầm non tốt tạo tiền đề vững chắc cho nhiệm vụ giáo dục đào tạo cho thế hệ trẻ mai sau.

     Thực tế hiện nay, nhiều giáo viên mầm non đã miệt mài, trăn trở, mong muốn và quyết tâm đổi mới song trong khi thực hiện lại rơi vào lúng túng, mất phương hướng, chính vì vậy chỗ đứng của việc dạy học mang tính chất truyền dạy - lĩnh hội, nhồi nhét, dập khuôn, máy móc vẫn tồn tại.                 

     Đứng ở góc nhìn tổng thể có thể thấy việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong một nhà trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố: trường lớp, trang thiết bị, trình độ giáo viên, trình độ quản lý của cán bộ, công tác xã hội hoá, nhận thức của người dân… nhưng tính đến kết quả giáo dục toàn diện trên mỗi đứa trẻ mầm non thì yếu tố phương pháp dạy học cho trẻ mầm non là yếu tố quan trọng nhất.

     Mỗi giáo viên cần ý thức và hiểu rằng việc đổi mới phương pháp giáo dục trẻ không đơn thuần do thực thi nhiệm vụ theo tinh thần chỉ đạo của cấp trên mà quan trọng là do sự phát triển tâm sinh lý của trẻ, yêu cầu phát triển của xã hội, tự nhà trường nhận thấy cần thiết phải thay đổi để đáp ứng được yêu cầu phát triển trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội.

     Nhận thức tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân tý hon đáp ứng với yêu cầu và xu thế hội nhập của toàn ngành giáo dục hiện nay. Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp giảng dạy trong toàn ngành Giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, tôi luôn trăn trở để tìm ra hướng đi, giải pháp phù hợp với đặc điểm của khối lớp trong trường. Để việc đổi mới phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm không chỉ là phong trào, không chỉ được nhìn thấy trên bề nổi mà còn được nhân rộng ở các nhà trường, ở từng lớp học và phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm trở thành thói quen của mỗi cô giáo.  Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm lứa tuổi MGN 4-5 tuổi trong trường mầm non” để áp dụng đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục cho đơn vị mình.

Chương 2:

Thực trạng vấn đề mà nội dung sáng kiến đề cập đến.

     1. Đặc điểm chung. 

     Đầu năm học 2018 - 2019, lớp tôi có 51 trẻ. Trong đó: 20 trẻ nữ và 31 trẻ nam. Trong quá trình chăm sóc và dạy trẻ chúng tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:

     a. Thuận lợi: 

          - Nhà trường đầu tư đầy đủ đồ dùng cơ sở vật chất phục vụ cho việc chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ.

         - Ban giám hiệu thường xuyên chỉ đạo sát xao việc đổi mới hình thức phương pháp giáo dục trẻ.

          - Bản thân tôi là một giáo viên luôn  yêu nghề, mến trẻ, có  trình độ chuyên môn và kinh nghiệm chăm sóc và giáo dục trẻ.

          - Đa số Phụ huynh rất nhiệt tình, quan tâm đến trẻ.

          - Trẻ đồng đều lứa tuổi.

     b. Khó khăn: 

- Bản thân trong những năm qua chưa nhận thức đầy đủ về phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm”, còn lúng túng trong việc vận dụng chương trình giáo dục mầm non mới vào thực tế giảng dạy. Tổ chức các hoạt động  còn độc lập, tách rời, mang nặng cung cấp kiến thức cho trẻ, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở trẻ, giáo viên chưa biết tạo môi trường để trẻ được học tập, tham quan khám phá ở mọi lúc mọi nơi.

- Phương pháp tổ chức các hoạt động trong chương trình còn dựa vào bài soạn mẫu chưa sáng tạo thực hiện, còn cứng nhắc.

- Đồ dùng, đồ chơi chưa thật sự phong phú về chủng loại, chưa có nhiều đồ chơi phát triển trí tuệ.

- Việc quan tâm chăm sóc con em của một bộ phận phụ huynh học sinh chưa đáp ứng với nhu cầu giáo dục ngày càng cao hiện nay. Nhu cầu về kinh tế, mưu sinh được quan tâm nhiều hơn nhu cầu học tập. Phụ huynh học sinh chưa nắm rõ quan điểm giáo dục hiện nay, thái độ hợp tác giáo dục trẻ chưa rõ ràng, chưa thống nhất với nhà trường. Giáo dục trẻ ở gia đình mang tính áp đặt và thiếu làm gương tốt cho trẻ noi theo.

     2. Khảo sát về mức độ nhận thức và sự hứng thú của trẻ

     Từ mục đích là: Đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ nên tôi đã tiến hành khảo sát mức độ nhận thức, hiệu quả sau mỗi tiết dạy, sự hứng thỳ của học sinh, kết quả cụ thể cho thấy: Đa số trẻ không hứng thú tham gia vào hoạt động, nắm kiến thức, kỹ năng của từng vấn đề hời hợt, không rõ ràng, cụ thể:  ( Tổng số trẻ là 51)

STT

 

Khả năng hứng thú và kiến thức, kỹ năng đạt được sau mỗi tiết học

Kết quả

Số lư­ợng

Tỷ lệ %

1

Loại tốt

14

27%

2

Loại khá

20

39%

3

Loại TB

10

20%

4

Loại yếu

7

14%

3- Nguyên nhân của thực trạng : 

           - Lập kế hoạch hoạt động ngày còn theo thói quen cũ, chưa phát huy tích cực của trẻ, chưa tìm hiểu, chưa đánh giá được vốn kiến thức, kỹ năng của trẻ.

         - Đánh giá trẻ hàng ngày còn chung chung, chưa thể hiện việc quan sát các biểu hiện, các hành vi cũng như việc tiếp thu kiến thức, kĩ năng của trẻ một cách rõ nét.

         - Ngoài ra, giáo viên chưa mạnh dạn, tự tin để độc lập xây dựng kế hoạch, nên chưa thể hiện nét đặc trưng riêng của mỗi cá nhân, chưa tạo được hứng thú và chưa phát huy được tính tích cực của trẻ.

Chương 3:

Các giải pháp, biện pháp mang tính khả thi

     1. Biện pháp 1 : Tự học, tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức và phương pháp về “dạy học lấy trẻ làm trung tâm”

     Chất lượng chuyên môn phụ thuộc rất lớn vào bản thân mỗi giáo viên do đó yếu tố con người đóng vai trò quyết định mà các văn kiện của Đảng và Nhà nước đều nêu rõ trong chỉ thị 40/CT/TW ngày 15/6/2004 của Ban bí thư TW Đảng về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Người thầy cần giỏi về chuyên môn, đồng thời lại phải tốt về nhân cách mới thực hiện được nhiệm vụ của mình, thực sự là những “Kỹ sư tâm hồn”.

     Do vậy việc bồi dưỡng về nhận thức và chuyên môn của bản thân mỗi giáo viên là một việc làm vô cùng cần thiết giúp giáo viên có nhận thức đúng đắn trang bị cho giáo viên những hiểu biết, các kiến thức về chuyên môn giúp giáo viên chủ động, tự tin trong quá trình tổ chức các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ.

     Từ nhận thức về ý nghĩa của việc tự học tự bồi dưỡng, nên bản thân tôi luôn tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng chuyên môn do Phòng GD&ĐT tổ chức, các buổi sinh hoạt chuyên môn tại nhà trường, lắng nghe và ghi chép một cách nghiêm túc, mạnh dạn trao đổi với giảng viên, CBQL - CM các trường những vấn đề còn chưa rõ, chưa hiểu, những vấn đề mà tôi quan tâm về đổi mới phương pháp giảng dạy.

     Xác đinh tự học, tự nghiên cứu tài liệu cũng là một việc làm không thể thiếu được trong việc nâng cao nghiệp vụ của giáo viên nên tôi đã tìm kiếm những tài liệu, sách vở về đổi mới phương pháp giảng dạy, lấy trẻ làm trung tâm, kỹ năng nghiệp vụ của giáo viên và tự đọc, tự nghiên cứu để rút ra được những vấn đề cần thiết đối với giáo viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy.

     Từ năm học 2018 - 2019 đến nay, tôi luôn coi trọng đề cao công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng và nhất là từ đầu năm học 2018 - 2019 toàn ngành giáo dục đã thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bản thân tôi đã đăng ký tự bồi dưỡng 4 mô đun trong đó có mô đun 20 “Phương pháp dạy học tích cực” để nghiên cứu và tự học bổ sung những phần kiến thức còn thiếu hụt cho bản thân.

     2. Biện pháp 2 : Xây d ựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm

      Xây dựng kế hoạch là một biện pháp quan trọng trong quá trình thực hiện những việc cần làm của người giáo viên. Việc lập kế hoạch giáo dục giúp cho giáo viên thực hiện mục tiêu giáo dục đầy đủ, có hệ thống, giúp giáo viên dự kiến trước nội dung, thời gian để tổ chức các hoạt động một cách hiệu quả.

      Kế hoạch là cơ sở để thống nhất mọi hoạt động. Giáo viên phải hình dung được rỏ ràng công việc sắp phải làm và hoàn toàn chủ động công việc trong nhóm, lớp, đồng thời đưa các hoạt động vào nề nếp.

     Giáo viên cần lập kế hoạch thực hiện lấy trẻ làm trung tâm để xác định các nội dung phù hợp nhất đối với trẻ trong nhóm lớp mình. Qua đó, tôi có điều kiện quan tâm đến trẻ hơn, biết những mặt mạnh, tiến bộ của trẻ để có những tác động phù hợp.

     Để xây dựng được kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trước hết cần hiểu rõ:

     2.1: Kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm là:

- Kế hoạch giáo dục căn cứ vào trẻ nghĩa là căn cứ khả năng, nhu cầu học tập, kinh nghiệm sống của trẻ để xác định mục tiêu, cụ thể nội dung.

- Tổ chức hoạt động luôn đặt trẻ vào trung tâm của quá trình giáo dục, có nghĩa là tạo mọi cơ hội cho trẻ được tham gia vào các hoạt động:

+ Trải nghiệm: trẻ được học qua thực tế, qua việc làm, qua khám phá tìm tòi

+ Giao tiếp: Chia sẻ với bạn và học từ mọi người

+ Suy ngẫm: suy nghĩ và vận dụng những điều đã lĩnh hội được vào việc giải quyết các tình huống.

+ Trao đổi: diễn đạt và chia sẻ suy nghĩ và mong muốn

Giáo viên chỉ là người tạo cơ hội, hướng dẫn, gợi mở giúp trẻ được chiếm lĩnh kiến thức.

Giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được xem như một quan điểm dạy học chi phối cả mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và cả quan điểm dạy học. Do vậy, để xây dựng được kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm một cách hiệu quả, tôi đã quan tâm và thực hiện các việc làm sau:

     2.2: Xác định mục tiêu:

- Xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm được thể hiện ngay từ việc xác định mục tiêu và cách viết mục tiêu. Vì vậy khi xác định mục tiêu trong kế hoạch bản thân tôi đã căn cứ vào những yếu tố sau:

  + Khả năng tiếp thu kiến thức, nhu cầu học tập khám phá, sở thích của từng trẻ trong lớp tôi phụ trách, để có được những kết quả trên tôi  đã lựa chọn từ việc theo dõi, quan sát trẻ hàng ngày, hàng  tuần, hàng  tháng…

  + Nội dung giáo dục cho từng độ tuổi (trong chương trình giáo dục mầm non) Ngoài ra, tôi căn cứ vào khả năng, hứng thú của trẻ, điều kiện nhóm lớp; nhu cầu, mong muốn của cha mẹ trẻ muốn trẻ có những kiến thức, kỹ năng nào để phù hợp với điều kiện sống của trẻ trong cộng đồng để xác định mục tiêu phù hợp khả năng, kinh nghiệm sống của trẻ, đáp ứng được yêu cầu của chương trình, phù hợp vói vùng miền, với trường lớp của tôi.

  - Việc viết mục tiêu tôi luôn hướng vào trẻ, nghĩa là trẻ sẽ làm được gì? sẽ như thế nào? sau một năm học (kế hoạch năm), sau 1 tháng (kế hoạch tháng) và sau một tuần, ngày (kế hoạch giáo dục tuần, ngày). Do đó mục tiêu giáo dục nhất là mục tiêu cho một bài (một nội dung) giáo viên đặt ra cần cụ thể, đo được, đạt được, thực tế và có giới hạn về thời gian để có thể dễ dàng xác định trong một khoảng thời gian nhất định mục tiêu đã đạt được chưa.

            Ví dụ: Mục tiêu giáo dục lĩnh vực Phát triển nhận thức

     2.3:  Lựa chọn nội dung giáo dục:

    -  Khi mục tiêu giáo dục đã được xác định tôi dựa vào mục tiêu để cụ thể hóa nội dung của từng lĩnh vực cho từng độ tuổi quy định trong chương trình vì nội dung giáo dục trong chương trình là những vấn đề cốt lõi, cơ bản. Ví dụ nội dung trong lĩnh vực phát triển nhận thức - phần khám phá khoa học: đặc điểm, công dụng và cách sử dụng đồ dùng, đồ chơi; so sánh sự khác nhau, giống nhau của 2,3 đồ dùng, đồ chơi; đặc điểm công dụng một số phương tiện giao thông ... dựa vào mục tiêu giáo viên cụ thể nội dung: đặc điểm, công dụng và cách sử dụng đồ dùng hay đồ chơi nào? So sánh sự khác nhau và giống nhau thì phải xác định so sánh đồ dùng/đồ chơi nào với nhau?  Đặc điểm, công dụng của phương tiện giao thông nào? xe máy hay ô tô.

    - Những nội dung giáo dục trong kế hoạch là những nội dung cụ thể,  trẻ  muốn biết, gẫn gũi với trẻ, phù hợp với vùng, miền.

   - Mục tiêu và nội dung liên quan với nhau do đó có mục tiêu thì phải có nội dung. Một mục tiêu có thể có 2-3 nội dung

     2.4:  Lựa chọn đổi mới hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục:

          - Theo Chương trình giáo dục mầm non, hoạt động giáo dục gồm: Hoạt động chơi, hoạt động học, hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân, hoạt động lao động.

          - Tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm thì

+ Người giáo viên là người hướng dẫn, khuyến kích, gợi mở, hỗ trợ và tạo cơ hội nhiều nhất cho trẻ được hoạt động, được trao đổi chia sẻ trình bày ý kiến của mình. Đồng thời giáo viên phải quan sát để đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá qua những câu hỏi thắc mắc của trẻ.

+ Trẻ luôn tích cực, chủ động tham gia các hoạt động, thích làm việc theo cặp, theo nhóm nhóm

+ Phương pháp, đồ dùng sử dụng, hình thức tổ chức phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ để kích thích sự tìm tòi, phám phá của trẻ. Chú trọng cho trẻ được trải nghiệm, giao tiếp và trình báy ý kiến  

Quan tâm đến hệ thống câu hỏi

Có hai dạng câu hỏi chính: Câu hỏi đóng và câu hỏi mở:

+ Loại câu hỏi đóng: câu trả lời là có hoặc không hoặc chỉ có một câu trả lời đúng duy nhất. Chức năng của loại câu hỏi này thường dùng để đánh giá ở mức độ ghi nhớ thông tin, đòi hỏi tư duy rất ít. Loại câu hỏi này thường dùng trong phần kết luận hoặc giới thiệu bài để kiểm tra xem trẻ đã hiểu nhiệm vụ và hướng dẫn cần làm trong phần phát triển bài

+ Câu hỏi mở là loại câu hỏi có nhiều đáp án cho trả lời. Câu hỏi này đòi hỏi tư duy nhiều thường dùng trong phần giới thiệu và phát triển bài 

Câu hỏi tốt tạo ra một thách thức về trí tuệ, tìm kiếm hiểu biết và tạo hứng thú cho trẻ.

       Để có được câu hỏi tốt bản thân tôi đã làm như sau: Chú ý đến mục đích của câu hỏi: hỏi để làm gì? Để hướng dẫn, gợi mở hay để kiểm tra, đánh giá mức độ hiểu, hỏi cái gì?  Câu hỏi phải phù hợp với trình độ, khả năng để trẻ có thể trả lời được và cố gắng để trả lời. Câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Phân bổ câu hỏi cho tất cả các đối tượng trẻ: trẻ nhút nhát đến trẻ tích cực.

- Đặt ít câu hỏi hơn, nhưng câu hỏi phải khiến trẻ suy nghĩ, không hỏi tràn lan.

- Dành thời gian để trẻ suy nghĩ trả lời.

- Không nên vội đánh giá, hãy động viên, khuyến khích để nhận được câu trả lời tốt hơn từ trẻ.

- Khuyến khích trẻ đặt câu hỏi.

- Trân trọng câu hỏi và câu trả lời của trẻ.

Ví dụ 1 số câu hỏi mở kích thích trẻ suy nghĩ:

* Con nghĩ thể nào?

* Làm sao con biết?

* Tại sao con lại nghĩ như vậy?

* Nếu.. thì sao? Nếu không… thì sao?

* Theo con thì điều gì/cái gì sẽ xảy ra tiếp theo?

Nói tóm lại khi xây dựng kế hoạch lấy trẻ làm trung tâm là việc tôi đặt ra các câu hỏi và tìm lời giải đáp để có một kế hoạch hoàn chỉnh phù hợp với trẻ.

1. Hiện tại trình độ của trẻ như thế nào ? Khảo sát, tìm hiểu trẻ.

2. Trẻ cần học gì tiếp theo ? Chọn mục tiêu.

3. Trẻ cần làm gì để đạt những mục tiêu, yêu cầu này ? Dự kiến các công việc / hoạt động cụ thể của trẻ cho trẻ trải nghiệm nhằm vào các mục tiêu đã đặt ra.

4. Những học liệu nào được dùng để thực hiện kế hoạch này ? Chọn học liệu, chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi cho trẻ và cô.

    3. Biện pháp 3 : Một số hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. 

  Đổi mới phương pháp giảng dạy là quá trình phối hợp linh hoạt và hợp lý những kinh nghiệm, thành tựu sử dụng, điều kiện cơ sở vật chất và cải tiến các phương pháp dạy học của đội ngũ giáo viên. Đổỉ mới phương pháp nhằm tích cực hoá các hoạt động dạy và học, khuyến khích giáo viên chủ động, sáng tạo, dạy học tập trung vào trẻ, lấy trẻ làm trung tâm để phát triển mọi khả năng của trẻ, tổ chức hướng dẫn trẻ học tập bằng cách tự phát hiện khả năng của mình và có niềm tin trong lao động, học tập.

          Với những hiểu biết của bản thân về đổi mới phương pháp giảng dạy tôi đã tự đặt ra những yêu cầu khi tổ chức một giờ hoạt động như sau:

          Đối với giáo viên.

- Nghiên cứu kỹ bài soạn và phân tích sư phạm bài dạy cụ thể là:

    + Soạn kế hoạch giáo dục, xác định trọng tâm kiến thức, kỹ năng bài học và các hình thức tổ chức hoạt động trong tiết dạy

          + Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, những nội dung khó, mục đích giải quyết ở lớp. Dự kiến những tình huống ở trẻ và cách khắc phục

          + Chọn hình thức tổ chức tiết học phù hợp với điều kiện CSVC của lớp phù hợp với đề tài dạy và lĩnh vực đã chọn

          + Để tổ chức một tiết dạy phải tuỳ nội dung và mục đích cụ thể của bài dạy để xác định cách tổ chức hoạt động cho trẻ làm thế nào để có kết quả cao nhất

          VD: Nếu mục đích của bài dạy chủ yếu rèn kỹ năng thì coi trọng cách học cá nhân của trẻ.

          - Tôi thực hiện việc đổi mới phương pháp lấy trẻ làm trung tâm không có nghĩa là tôi loại bỏ hoàn toàn phương pháp cũ mà về cơ bản vẫn phải tuân thủ các bước trong suốt tiến trình của tiết học, vẫn phải dựa trên cơ sở phương pháp dạy đặc trưng các bộ môn. Đổi mới phương pháp là cách học “ Lấy trẻ làm trung tâm” dưa trên sự hiểu biết, hứng thú nhu cầu của trẻ mà ta đưa ra nội dung bài dạy, kiến thức sao cho phù hợp với trẻ. Hình thức tổ chức tiết học đa dạng, phong phú tuỳ vào sự sáng tạo của giáo viên để tiết học trở lên nhẹ nhàng, không gò bó, áp đặt trẻ theo đúng tính chất: “ Học mà chơi, chơi mà học” của trẻ mầm non.

          Đối với trẻ.

           - Tôi khuyến khích trẻ mạnh dạn tham gia các hoạt động cùng cô, giúp trẻ tự tin trong giao tiếp, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ, tạo tâm thế thoải mái cho trẻ khi bước vào giờ hoạt động. Giúp trẻ chủ động, tích cực trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, tạo cơ hội cho tất cả các trẻ đều được tham gia vào quá trình nhận thức, tìm tòi, khám phá tri thức, trẻ được thể hiện sự hiểu biết, suy nghĩ của trẻ thông qua các hoạt động cụ thể.

     4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm

      Trong giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, thì môi trường học tập có ý nghĩa vụ cùng quan trọng đối với việc học tập và tiếp thu kiến thức của trẻ. Trẻ em vốn rất hiếu kỳ, chúng tò mò mong muốn được khám phá tất cả mọi vật xung quanh chúng. Những hình ảnh, những ấn tượng mà trẻ thu nhận được trong những năm tháng tuổi thơ sẽ hằn sâu trong trí nhớ suốt cả cuộc đời của trẻ. Những điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển sau này của trẻ. Chính vì vậy tôi luôn tâm niệm: Sẽ trang bị cho trẻ một thế giới tự nhiên, một môi trường học tập tốt nhất ở ngay tại khu vực lớp và trường của trẻ.

      Trước hết tôi làm đẹp môi trường lớp học từ cách bố trí, sắp xếp nội vụ trong lớp, trưng bày đồ dùng, đồ chơi sao cho hấp dẫn đẹp mắt mà vẫn gọn gàng ngăn nắp.

    Xây dựng các góc hoạt động khác nhau trong lớp nhằm tạo điều kiện cho trẻ hoạt động cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ được nhiều hơn, hình thức hoạt động phong phú, đa dạng hơn .Giúp trẻ tìm hiểu và khám phá cái mới, hoạt động với đồ vật và rèn luyện kỹ năng.

- Trong lớp tôi đã bố trí các góc như sau: Góc yên tĩnh xa góc hoạt động ồn ào

    Ví dụ: Góc xây dựng và góc phân vai ở gần nhau và xa góc sách, góc xây

dựng tránh lối đi lại. Góc tạo hình gần nguồn nước, góc thiên nhiên ở ngoài hiên

 - Các góc  có khoảng rộng, cách nhau hợp lý để bảo đảm an toàn và vận động của trẻ.

 - Tạo ranh giới giữa các góc hoạt động

    Ví dụ : Sử dụng giá dựng đồ chơi quay lại tạo thành ranh giới cho góc chơi. Ranh giới ở các góc không che tầm nhìn của trẻ và không cản việc quan sát của giáo viên

- Thay đổi vị trí các góc sau mỗi chủ đề để tạo cảm giác mới lạ, kích thích hứng  thú của trẻ.

 - Đặt tên các góc phải đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với nội dung từng chủ đề đang thực hiện, tên góc rõ ràng để tích hợp lồng ghép chữ cái.

          Ví dụ: Khi thực hiện chủ đề “Gia đình” góc  sách có thể đặt “ Thư viện của gia đình bé”  nhưng khi sang chủ đề  “ thế giới thực vật” góc sách có thể đặt “ Thư viện của các loại cây”.

- Trang trí góc trưng bày sản phẩm của trẻ: Tôi xắp xếp vị trí đủ rộng, dễ nhìn để làm góc trưng bày sản phẩm của trẻ. Có hình ảnh minh hoạ ngộ nghĩnh, tên gọi gần gũi, hấp dẫn trẻ VD: Họa sỹ tý hon, hoặc Ai khéo tay, bé thích bài nào.

   Tôi bố trí giá sách chủ yếu là sách vẽ con vật, cây cối, hoa lá, quả hạt … Tranh ảnh vừa tầm với của trẻ để trẻ có thể xem và đọc sách ( có que chỉ cho việc đọc sách ). Đọc sách theo từng chữ, từng dòng, tôi sắp xếp các hộp đựng vỏ cây khô hoa lá ép  khô, các loại hạt. Có ngắn nhãn mác và hình ảnh rõ ràng để trẻ dễ nhận thấy, trẻ đ­ược chơi và làm đ­ược những sản phẩm từ những dồ chơi ấy. Ngoài ra tôi cũng dùng vỏ hến, ốc trai, sò … vỏ trứng vệ sinh sạch sẽ vừa làm đồ dùng, đồ chơi phong phú vừa rẻ tiền vừa dễ kiếm.

Các tranh, lô tô đều đ­ược phân loại để ở giá vừa dễ lấy, dễ tìm.

Ví dụ : Tôi phân loại lô tô :

-  Lô tô con vật xếp vào một ô .

-  Lô tô các loại quả xếp vào một ô

Đối với tranh đều có chữ cái t­ương ứng ở d­ưới cũng đư­ợc phân loại xếp gọn gàng và dễ kiếm.

      Khi trang trí lớp bao giờ tôi cũng chú ý tới những mảng tường lớn trong góc chơi, hoặc những mảng trung tâm mà trẻ thường hoạt động để trang trí. Các mảng này vừa được sử dụng để trang trí vừa được gắn những hình ảnh rất ngộ nghĩnh, sinh động. Từ những nguyên vật liệu đơn giản, dễ kiếm tôi đã cắt, vẽ dán trang trí những hình ảnh ngộ nghĩnh, có hiệu quả giáo dục. Như những cây nổi có kích cỡ lớn để trang hoàng cho lớp học của mình.

          VD: Tôi chọn một góc sáng dễ quan sát, tôi làm một cây chuối từ nhiều chất liệu, cây có lá, có buồng nổi hẳn lên trên bề mặt của tường. Bất cứ ai bước vào lớp học cũng bị thu hút sự chú ý bởi loại cây này. Tôi nghĩ đây chính là một loại phương tiện đồ dùng để cho trẻ được trải nghiệm, được khám phá, nó sẽ hấp dẫn hơn nhiều các bức tranh vẽ mà trẻ vẫn thường được học. Ngoài ra các mảng phụ tôi đã dùng để trang trí những hình ảnh theo từng chủ điểm cụ thể để trẻ dược cảm nhận sự vật hiện tượng một cách tự nhiên. Tụi cũn sưu tầm các loại vải vụn, cọng rơm khô, lá khô, hoa ép khô, vỏ cây khô để cựng trẻ làm tranh ảnh cho tiết dạy. S­ưu tầm các loại hạt, các loại vỏ trai ốc, hến sò ... để bổ xung cho giá đồ chơi của trẻ ( Hình 3, Hình 4).

          Khu vực ngoài hiên tôi xây dựng góc thiên nhiên là nơi dành cho các hoạt động chăm sóc cây cối: Nhặt cỏ, bắt sâu, t­ưới nước, ngoài ra còn là nơi tìm đọc các loại sách về thiên nhiên, các tranh ảnh về thế giới tự nhiên. Ở nơi đó có những chậu hoa đua nở bốn mùa, có tiếng hót véo von, có những đàn cá bơi lội tung tăng, có những hạt lạc, hạt đỗ ngày đêm đội đất, nhú mầm. ở đó tôi đã bố trí phù hợp chỗ cho những giò cây leo lá xanh tươi mát, những chú ong, bướm, chị chuồn chuồn khi bay, khi đậu lại là tâm điểm chú ý của các bạn trẻ thơ. Ở chính nơi này các bé được đắm mình thực sự trong thế giới tự nhiên của trẻ, khiến cho trẻ bị hấp dẫn bị thu hút từ đó trẻ đã có thể cảm nhận sự vật hiện tượng, được trải nghệm chúng một cách tự nhiên nhất. Tôi xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh nh­ư: cây vạn niên thanh , cây hoa hồng … giàn dây leo.

Tất cả những điều đó như tạc vào tâm hồn trẻ cả một thế giới tự nhiên sống động, tươi mát, trong trẻo. Để trẻ đắm mình trong thế giới tự nhiên để trầm trồ, ngắm nghía, thậm chí là đưa tay để sờ, để  cảm nhận. Sự vui tươi, hứng khởi đã lộ rõ trên khuôn mặt trẻ. Bởi chính cô giáo chúng đã mang đến cho chúng cả một thế giới thiên nhiên, thế giới bạn bè đầy thân thiện.

    4.1 Môi trường trong – ngoài lớp học: 

     a. Làm và s ử dụng đồ dùng đồ chơi .

       Đồ chơi là người bạn không thể thiếu trong các trò chơi của trẻ và là nguồn vui của trẻ thơ, là những phương tiện trẻ dùng để vui chơi, là những đồ vật cụ thể giúp trẻ cầm, nắm dễ dàng…giúp trẻ tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh,  làm quen với những đặc điểm, tính chất của nhiều đồ vật khác nhau , biết được công dụng của chúng trong sinh hoạt và trong lao động của con người, còn là phương tiện giúp trẻ phát hiện ra những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội và dần dần biết gia nhập vào những mối quan hệ đó. Đồ chơi còn có tác dụng thúc đẩy, hình thành và phát triển các chức năng tâm lý, góp phần hình thành nhân cách ở trẻ trong đó việc phát triển tình cảm thẩm mỹ rất quan trọng.

     Vai trò và ý nghĩa của đồ chơi thật to lớn và sâu sắc, là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu đối với cuộc sống tinh thần đối với mỗi đứa trẻ. Đồ chơi được lựa chọn đúng đắn sẽ thúc đẩy hoạt động trí tuệ của trẻ em. Có những đồ chơi giúp phát triển các cơ quan thụ cảm, những đồ chơi mô phỏng các đồ vật giúp trẻ nắm được hình dáng, cấu tạo, công dụng và phương thức sử dụng. Có những đồ chơi thôi thúc trẻ tập nói, phát triển ngôn ngữ và làm phong phú thêm vốn từ. Những đồ chơi lắp ráp hay phương tiện giao thông giúp trẻ rèn luyện các thao tác trí tuệ như phân tích, tổng hợp, so sánh, phân loại, làm phát triển tư duy ở trẻ thơ một cách hoàn thiện.

      Chính vì thế mà đồ dùng cần phải đẹp, phong phú, sáng tạo, mới mẻ, đảm bảo sự an toàn tuyệt đối, dễ sử dụng thì tiết học sẽ đạt được 50% hiệu quả của sự thành công. Đặc biệt là những loại đồ dùng tự làm, luôn thực tế, sinh động và bám sát với yêu cầu của tiết học nên chắc chắn sẽ hấp dẫn trẻ hơn so với những loại đồ dùng mua sẵn. Hiểu được điều này nên tôi đã mang hết khả năng của mình để làm ra những loại đồ dùng, đồ chơi phong phú, nhiều chủng loại. Tôi gom nhặt những loại phế liệu như lọ nhựa, can nhựa, vải lỉ vụn, mùn cưa,  lá cây, bìa, giấy các loại, ống và chai tiếp nước, màu vẽ, vỏ thạch Từ những thứ tưởng chừng như vô chi vô giác ấy nhưng bằng sự chịu khó, mầy mò, suy nghĩ: phải làm sao tạo cho nó một vẻ đẹp, và thổi vào đó cái hồn để thu hút sự chú ý của trẻ. Đư­ợc nhà trư­ờng cấp cho tranh dạy môi tr­ường xung quanh, lô tô các loại...Ngoài ra tôi còn tự làm đồ dùng phục vụ tiết dạy, các loại tranh ảnh, hình ảnh, các con vật, cây cỏ, hoa lá ... Sưu tầm tranh có hình ảnh đẹp sử dụng trong việc cho trẻ KPMTXQ. Tận dụng các hình ảnh ở lốc lịch, bìa, hoạ báo, ảnh cũ ... Vừa trang trí lớp vừa làm đồ dùng đồ chơi.

Đặc biệt, trẻ ở độ tuổi này rất thích tự tìm tòi, khám phá những điều mới lạ trong cuộc sống, qua thao tác với đồ chơi, trẻ sẽ tích lũy thêm kinh nghiệm và hiểu biết nhiều hơn. Nếu trong một tiết học, cô không sử dụng đồ dùng trực quan thì sẽ không thu hút được sự chú ý của trẻ và trẻ chóng chán, khiến chất lượng dạy và học không cao. Đồ dùng trực quan là một minh họa sinh động để giúp trẻ chú ý và tiếp thu một cách nhanh chóng nội dung vấn đề cô cần truyền đạt. Đồ chơi tự tạo là dụng cụ học tập đơn giản dễ dàng phục vụ hoạt động chơi mà học của trẻ, cách thức chơi với đồ chơi và những đồ chơi mà trẻ thích phải thay đổi theo sự phát triển của trẻ. Càng có nhiều cách để trẻ chơi với một đồ chơi thì trẻ càng học được nhiều.

Tôi tận dụng bìa cát tông làm những con vật có dây dật thật sinh động ,hấp dẫn , gây hứng thú với trẻ. Sau đó để trẻ tự điều khiển, để trẻ biết con vật này có chân hay có cánh , có chân thì biết chạy có cánh thì biết bay .

Tôi để cho trẻ tự làm một sản phẩm như tranh vẽ về các con vật, cỏ cây, hoa lá, hoặc các sản phẩm nặn những đồ vật xung quanh trẻ, các sản phẩm tạo hình, tranh từ những phế liệu, cô và trẻ cùng làm thể hiện vốn hiểu biết phong phú của trẻ về MTXQ .

Với những đồ dùng, đồ chơi đ­ợc phát và tự làm khi tôi đ­a vào sử dụng trong tiết dạy môi trư­ờng xung quanh, tôi thấy trẻ rất hào hứng, hứng thú học, trẻ hiểu biết nhiều ,quan sát rất tốt , tìm rất nhanh các vật mẫu cô đ­ưa ra, so sánh và phân loại cũng rất rõ ràng , rành mạch , ngôn ngữ rất phát triển, trẻ thuộc rất nhiều thơ ca dao, tục ngữ, đặc biệt là các câu đố về các con vật, các cây hoa, các loại quả. Tư­ duy của trẻ cũng nhanh và chính xác hơn.

     Trong suốt một khoảng thời gian cố gắng thì số lượng đồ dùng tương đối nhiều đủ để phục vụ cho các tiết học làm quen với môi trường xung quanh. và tôi lại tiếp tục tranh thủ vẽ tranh, tôi vẽ các bức tranh về con gà, con vịt về thế giới động, thực vật, về một số nghề trong xã hội…và về muôn vàn những sự vật hiện tượng mà hàng ngày trẻ sẽ được làm quen. Với cả một kho tàng đồ dùng phong phú như vậy sẽ góp một phần không nhỏ làm lên sự thành công của các tiết dạy, cũng như nâng cao chất lượng của bộ môn làm quen với môi trường xung quanh cho trẻ 4 tuổi.  ( Hình 6, Hình 7 )

     b. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp giảng dạy.

Với điều kiện phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại như ngày nay việc ứng dụng các phương tiện hiện đại trong giảng dạy cũng được tôi sử dụng thường xuyên nhằm gây hứng thú lĩnh hội kiến thức cho trẻ.

Tôi thường lựa chọn những đề tài và lựa chọn cách ứng dụng CNTT ( các phần mềm thiết kế bài giảng, trò chơi…) một cách phù hợp để đổi mới phương pháp giảng dạy, kích thích sự chú ý, hứng thú của trẻ vào mỗi hoạt động.

VD: Hoạt động: khám phá khoa học

Đối với những tiết dạy cô khó có thể cung cấp kiến thức cho trẻ theo cách truyền thống thì giáo viên có thể sử dụng các băng, đĩa tư liệu. cắt phim, tìm hình ảnh, phim trên mạng để  tạo thành giáo án điện tử để dạy cho trẻ.

- Lồng ghép âm thanh, hình ảnh sống động  để tạo hứng thú

- Vẽ, can cắt tạo ra các quy trình phát triển của con vật, sự vật, hiện tượng… để giải thích  cho trẻ hiểu

- Xây dựng các trò chơi ôn luyện.

- Chơi các trò chơi trong chương trình Kidsmart: Phân loại, sắp xếp theo quy tắc, tạo chuỗi logic…

Hoạt động: Làm quen với toán

- Lập số, tạo nhóm số lượng tương ứng với chữ số, so sánh các nhóm đồ dùng…Khi  gíao viên tạo các nhóm số lượng trên máy, thì có nhiều hình ảnh  phong phú đa dạng có thể kết hợp âm thanh  cho trẻ nghe và đếm.

- Tạo các hình hình học

- Trò chơi ứng dụng: Sắp xếp các nhóm số lượng, thêm bớt, cộng trừ 

Hoạt động: Làm quen với văn học.

- Với những bài thơ truyện không có hình ảnh, cô vẽ tạo các bức tranh thể hiện nội dung để dạy cho trẻ. Khi dùng những câu truyện tranh sưu tầm thì cô sẽ cần dùng hình ảnh, tạo hiệu ứng cho các nhân vật , lồng ghép âm thanh cho câu chuyện .

Hoạt động: Giáo dục âm nhạc.

- Chép các bài nhạc bằng phần mềm Encore, mở cho  trẻ nghe, tập hát. Đặc biệt giúp ích cho giáo viên không biết đàn khi chép các nốt nhạc vào có thể phát và tập hát theo.

- Sưu tầm các băng đĩa cắt những đoạn phim cần minh họa cho nội dung bài hát.

 - Tạo các hình ảnh, scan nột dung bài hát hoặc âm thanh các nhạc cụ… cho trẻ chọn để tổ chức các  “Trò chơi âm nhạc”.

 Hoạt động: Tạo hình.                 

Tạo câu chuyện, quay những cảnh đẹp làm đề tài cho trẻ vẽ. Kích thích cảm xúc thẩm mĩ qua hình ảnh, âm thanh…

Thông qua những giờ học có áp dụng công nghệ thông tin và sử dụng các bài giảng điện tử, vừa tiết kiệm được thời gian cho người giáo viên mầm non, vừa tiết kiệm được chi phí cho nhà trường mà vẫn nâng cao được tính sinh động, hiệu quả của giờ dạy.

     4.2: Môi trường tâm lý - xã hội:

     Là môi trường được tạo dựng trên cơ sở bầu không khí sư phạm trong nhà trường, mối quan hệ tác động qua lại giữa người lớn với trẻ. Môi trường tâm lý – xã hội cho trẻ là:

- Môi trường an toàn - phong phú - tự do, môi trường mà người lớn chăm sóc – giáo dục trẻ trực tiếp và thường xuyên, môi trường có sự tôn trọng và tin tưởng lẫn nhau, môi trường khuyến khích trẻ tích cực, chủ động hoạt động.

     a. Các mối quan hệ:

* Tầm quan trọng của các mối quan hệ:

 - Các mối quan hệ của trẻ ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực và giai đoạn phát triển của trẻ. Trong thực tế, các mối quan hệ là những trải nghiệm quan trọng nhất trong môi trường của trẻ vì chúng truyền đạt cho trẻ những thông tin nhiều nhất về thế giới xung quanh họ. Đổi lại, trẻ sẽ định hình theo cách mà chúng cảm nhận về thế giới. Trẻ nhận biết về thế giới qua các mối quan hệ - ví dụ, khi giao tiếp với cô giáo - và cũng qua cách chúng nhận biết mối quan hệ giữa người với người - ví dụ, cách bạn cư xử với người thân của bạn, và cách người thân bạn cư xử đối với bạn.

- Thông qua các mối quan hệ, trẻ biết được thế giới này có an toàn hay không, mình có được yêu thương hay không, ai yêu thương mình, điều gì xảy ra khi mình khóc, cười hoặc nũng nịu - và nhiều hơn nữa. Và việc học tập này là cơ sở cho việc giao tiếp, hành vi, các kỹ năng xã hội và các kỹ năng khác của trẻ. Các mối quan hệ quan trọng nhất của trẻ chính là mối quan hệ với cô giáo, các thành viên khác trong gia đình và người chăm sóc chúng - ví dụ, giáo viên mầm non. Những mối quan hệ ban đầu là nền tảng cho sự phát triển lành mạnh của trẻ.

- Trong những năm đầu, cách thức học tập và phát triển chính của trẻ là thông qua việc vui chơi. Vui chơi là niềm vui cho trẻ và giúp trẻ có cơ hội để khám phá, quan sát, thí nghiệm, giải quyết vấn đề và học hỏi từ những sai lầm của bản thân. Trẻ sẽ cần sự hỗ trợ và khuyến khích của cô giáo để thực hiện điều này. Nhưng điều quan trọng là phải cố gắng tìm ra sự cân bằng giữa việc giúp đỡ trẻ vàcho phép trẻ phạm sai lầm, bởi việc để trẻ tự mình tìm hiểu cách thức thế giới vận hành là một phần quan trọng của việc học hỏi. Dành nhiều thời gian chơi, nói chuyện, lắng nghe và tương tác với cô giáo giúp trẻ học hỏi những kỹ năng mà mình cần có cho cuộc sống, như giao tiếp, tư duy, giải quyết vấn đề, hoạt động và ứng xử với những cá nhân và các đứa trẻ khác. Nhưng hơn thế nữa, vui chơi là một yếu tố giúp xây dựng mối quan hệ tuyệt vời. Dành thời gian vui chơi với trẻ sẽ giúp cô giáo – người thân trong gia đình truyền gửi một thông điệp đơn giản - con rất quan trọng với mẹ - với cô. Thông điệp này sẽ giúp trẻ biết được mình là ai và nơi nào là dành cho trẻ trong thế giới này. Khi trẻ phát triển, nhu cầu của trẻ sẽ thay đổi. Giáo viên – cha mẹ trẻ sẽ biết thêm về những gì trẻ cần và cách thức để có thể đáp ứng những nhu cầu này.

     * Xây dựng môi trường tâm lý – xã hội cho trẻ:

     Mỗi đứa trẻ là một cá thể riêng biệt, chúng khác nhau về thể chất, tình cảm, xã hội, trí tuệ, hoàn cảnh gia đình, văn hóa và tâm lý. Do đó, mỗi trẻ em có hứng thú, cách học và tốc độ học tập khác nhau và chúng đều có thể thành công. Trẻ học bằng chơi tốt nhất khi có người lớn hỗ trợ và mở rộng những gì chúng đang hứng thú và đang thực hiện.

     Môi trường giáo dục trong trường mầm non là tổ hợp những điều kiện tự nhiên – xã hội cần thiết, trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non. Hiệu quả của những hoạt động này nhằm góp phần thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ. Một quan điểm khác lại phân chia môi trường giáo dục thành môi trương vật chất và môi trường xã hội. Môi trường vật chất trong trường mầm non bao gồm các trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, không gian phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Môi trường vật chất tạo cho trẻ những cơ hội tốt để trẻ thỏa mãn nhu cầu hoạt động và phát triển toàn diện về mặt thể chất, trí tuệ thẩm mĩ, đạo đức, xã hội. Môi trường xã hội được hiểu là toàn bộ những điều kiện xã hội như chính trị, văn hóa, các mối quan hệ giúp trẻ hình thành nhân cách của mình. Môi trường xã hội đặc biệt được nhấn mạnh ở đây là môi trường giao tiếp trong trường mầm non, bao gồm sự giao tiếp giữa cô và trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa trẻ với những người xung quanh. Môi trường này vừa mang tính chất sư phạm, vừa mang tính chất gia đình. Việc phân loại môi trường có thể khác nhau, song đều quan trọng đối với giáo dục mầm non. Theo chúng tôi, môi trường đó cần phải cung ứng các điều kiện cần thiết để kích thích và phục vụ trẻ hoạt động một cách tích cực, chăm sóc trẻ tốt… qua đó, nhân cách trẻ sẽ được phát triển tốt và thuận lợi. Đối với phụ huynh và xã hội, quá trình xây dựng môi trường giáo dục sẽ thu hút được sự tham gia của các bậc phụ huynh và sự đóng góp của cộng đồng xã hội để thỏa mãn mong đợi của họ đối với sự phát triển của trẻ trong từng giai đoạn, trong từng thời kì.

Chương 4:

Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến.

      Sau hai năm nghiên cứu và ứng dụng Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục: “Lấy trẻ làm trung tâm” tôi đã thu được một số kết quả như sau:

     1. Vai trò:

     Trẻ hồn nhiên mạnh dạn trong mọi hoạt động, hứng thú, tham gia tích cực vào các hoạt động, phát huy được tính tích cực, mở rộng được sự hiểu biết trong các hoạt động chung, giờ hoạt động góc, trẻ biết thể hiện ý kiến, ý định của mình với cô giáo và các bạn trong từng hành động, lời nói, kỹ năng giao tiếp ngôn ngữ, trí tưởng tượng trong từng sản phẩm…

    - Kết quả cho ta thấy:

Kết quả đạt đư­ợc của trẻ

TT

Khả năng hứng thú và kiến thức, kỹ năng đạt được sau mỗi HĐ học

Đầu năm học

2018 - 2019

Cuối năm học

2018 - 2019

Tăng

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

Số lượng

Tỷ lệ %

1

Loại tốt

14

27%

20

39%

6

12%

2

Loại khá

20

39%

31

61%

11

22%

3

Trung bình

10

20%

0

0

0

 

4

Loại yếu

7

14%

0

0

0

 

     2. Đối với phụ huynh.

- Các bậc phụ huynh có nhận thức sâu sắc về chương trình GDMN, luôn có sự phối hợp với giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.

- Tin tưởng gửi con vào nhà trường, quan tâm đến chương trình học của trẻ và có nhu cầu học tập. Nhiệt tình sưu tầm ủng hộ nhà trường đồ dùng, đồ chơi sẵn có ở địa phương, tạo môi trường học tập thuận lợi cho nhà trường

     3. Về giáo viên

Qua một thời gian tìm tòi nghiên cứu các biện pháp thích hợp, lớp tôi đã có một kết quả thật tốt. Có được kết quả như vậy đó là sự nỗ lực phấn  đấu của bản thân tôi kết hợp với đồng nghiệp đặc biệt là BGH – tổ CM nhà trường luôn sát cánh cùng tôi cải tổ, đổi mới những biện pháp, hình thức sao cho phù hợp với khả năng  nhận thức của trẻ để có được kết quả như vậy tôi đã rút ra những kinh nghiệm sau:

 - Có thêm kinh nghiệm trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ.

- Được nhà trường và đồng nghiệp tin tưởng, học sinh yêu quý, kính trọng.

- Biết cách sắp xếp môi trường học tập phù hợp với độ tuổi, biết lồng ghép đan xen giữa các bộ môn, say mê sưu tầm và sử dụng sáng tạo các vật liệu sẵn có vào từng tiết dạy và các hoạt động, biết lựa chọn đổi mới phương pháp linh hoạt đáp ứng theo yêu cầu của hoạt động theo từng tháng.

- Nắm vững phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm, tự tin khi thực hiện các hoạt động CSGD, linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng và thực hiện kế hoạch.

PHẦN III: KẾT LUẬN 

1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập của đề tài.

     Sau khi nghiên cứu và ứng dụng bản sáng kiến kinh nghiệm, tôi nhận thấy để thực hiện tốt việc “Nâng cao hiệu quả giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”, cần thực hiện tốt những vấn đề sau:

- Nghiên cứu một số lý luận và thực tiễn liên quan đến việc giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.

- Đánh giá thực trạng về vấn đề đổi mới phương pháp giáo dục lấy trẻ làm trung tâm của đồng nghiệp, của bản thân, mức độ tiếp thu kiến thức, sự hứng thú của trẻ.

- Tích cực bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Xây dựng kế hoạch giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.  Tổ chức các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Làm đồ dùng đồ chơi để phục vụ dạy và học. Ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy. Kiểm chứng các giải pháp mà bản thân đã thực hiện và rút ra những kết luận quan trọng, hiệu quả ứng dụng của đề tài.

     2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm.

Thực hiện đổi mới hình thức và phương pháp giáo dục mầm non trong suốt những năm qua đã đem lại kết quả và chuyển biến tốt trong phương pháp giáo dục trẻ, qua đổi mới đã tạo cơ hội cho trẻ được tìm tòi khám phá phát huy năng lực sẵn có của mình, trẻ được hoạt động một cách thoải mái ở các góc chơi, kích thích sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động với các nguyên liệu sẵn có.

  Giáo viên linh hoạt, sáng tạo không bị gò bó khi tổ chức các hoạt động cho trẻ nhất là hoạt động chung có mục đích học tập và hoạt động góc chơi, giáo viên có thể sử dụng tối đa nguồn nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, để làm phong phú các hoạt động của trẻ, trẻ ham học nghiên cứu tìm tòi khám phá giao tiếp ngôn ngữ tình cảm.

Đối với giáo viên biết cách sắp xếp môi trường học tập phù hợp, chất lượng chuyên môn của bản thân và đồng nghiệp được nâng lên rõ rệt, bản thân  nắm vững phương pháp dạy đổi mới lấy trẻ làm trung tâm, có hình thức các tiết dạy linh hoạt sáng tạo, có tác phong sư phạm tốt, biết lồng ghép đan xen giữa các bộ môn để giáo dục trẻ phù hợp, các cháu học có nền nếp có chất lượng. Kiểm tra chất lượng trẻ cuối năm theo 5 lĩnh vực phát triển đạt tỷ lệ cao.

     3. Kiến nghị.

     * Với Phòng giáo dục:

     Tổ chức các buổi giao lưu chuyên môn, các buổi bồi dưỡng chuyên môn, hội thảo vÒ “ Đổi mới phương pháp giảng dạy”, Phương pháp giảng dạy: “Lấy trẻ làm trung tâm”. Cung cấp các tài lệu có liên quan đến phương pháp dạy học lấy trẻ làm trung tâm.

     * Với nhà trường:

Nhà trường thường xuyên mở các buổi bồi dưỡng chuyên môn, sinh hoạt chuyên môn, dự giờ kiến tập để tạo điều kiện cho giáo viên chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm trong công tác.

Cung cấp đầy đủ đồ dùng dụng cụ trong lớp học.

     * Với tổ chuyên môn:

Giáo viên trong tổ thường xuyên trao đổi những kinh nghiệm chăm sóc trẻ để rút ra kinh nghiệm.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates