SƯU TẬP NHỮNG KIẾN THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN ÂM NHẠC VIỆT NAM THỜI 4.0

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2023

Thầy Đỗ Ngọc Thống chia sẻ về giáo án theo định hướng phát triển năng lực

 



GDVN- Các cấp quản lí giáo dục quy định dạy học cần có giáo án, giúp giáo viên tự giác chuẩn bị giáo án, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Chỉ còn vài tuần nữa là vào năm học mới 2023-2024, vậy mà "chợ" kế hoạch bài dạy lớp 4, lớp 8, lớp 11, đã rầm rộ mở bán trên mạng xã hội. 

Hiện nay không có bất cứ văn bản nào cấm giáo viên mua, bán kế hoạch bài dạy. Giáo viên mua kế hoạch bài dạy về để đối phó với việc kiểm tra của nhà trường hay để tham khảo khó mà biết được. 

Người viết đã trao đổi với PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, là chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới môn Ngữ văn đồng thời là tác giả viết sách giáo khoa, về kế hoạch bài dạy của giáo viên theo định hướng phát triển năng lực.

Thầy Đỗ Ngọc Thống chia sẻ về giáo án theo định hướng phát triển năng lực ảnh 1

PGS.TS Đỗ Ngọc Thống Đỗ Ngọc Thống (thứ 7 từ trái sang) - Ảnh NVCC

PGS.TS Đỗ Ngọc Thống Đỗ Ngọc Thống chia sẻ, kế hoạch bài dạy hay còn gọi giáo án là sự hình dung trước tiến trình lên lớp của người dạy về một nội dung cụ thể. 

Sự hình dung ấy dựa trên cơ sở đối tượng học sinh, nội dung và yêu cầu của bài học, phương tiện, thiết bị, không gian và sĩ số lớp học... 

Vì thế bản chất của việc soạn giáo án là sự suy ngẫm, hình dung trong đầu của người giáo viên về bài mình sẽ dạy. 

Giáo viên không có sự trăn trở, suy ngẫm này thì chưa thể có giáo án. Nghĩa là giáo án không phải đơn thuần là chép lại một số trang giấy từ một tài liệu tham khảo nào đó (như giáo án trên mạng, giáo án của đồng nghiệp...). 

Giáo án chép lại nhiều khi rất dài, rất đầy đủ các mục.... nhưng không có tác dụng bao nhiêu cho việc dạy học trên lớp, thậm chí phản tác dụng. 

Giáo án phải là kết quả nghĩ suy của chính bản thân người dạy như đã nêu. Khi đó chép ra hay không chép ra trên giấy cũng không ảnh hưởng mấy đến kết quả bài dạy. Tuy nhiên, thường nghĩ xong rồi chép ra giấy thì sẽ nhớ lâu hơn. 

Người giáo viên giỏi, có kinh nghiệm đôi khi không cần có giáo án chép ra giấy mà chỉ chuẩn bị giáo án trong đầu là đủ. 

Vì thế cần dựa vào kết quả dạy học trên lớp để đánh giá chất lượng dạy chứ không đơn giản dựa vào việc có giáo án soạn ra giấy đầy đủ hay không.


Giáo viên đang chuẩn bị kế hoạch bài dạy như thế nào?

Nói về phát triển năng lực cho học sinh trong môn Ngữ văn, PGS.TS Đỗ Ngọc Thống cho biết: “Giáo án dạy học Ngữ văn theo yêu cầu phát triển năng lực khác giáo án dạy học chạy theo nội dung (giảng văn). 

Giáo án giảng văn là nêu các nội dung chính cần giảng cho học sinh nghe về tác phẩm A, vấn đề B... 

Giáo án theo yêu cầu phát triển năng lực là hệ thống các hoạt động, phương pháp và kĩ thuật dạy học nhằm giúp học sinh tự tìm ra kiến thức. 

Vì thế giáo án theo yêu cầu phát triển năng lực là giáo án phương pháp, giáo án hướng dẫn cho học sinh cách học: cách đọc, cách viết, cách nói- nghe... Giáo án nội dung trả lời câu hỏi: Dạy cái gì? Nói cho học sinh nghe cái gì?...

Giáo án phương pháp tập trung trả lời câu hỏi: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu vấn đề bằng cách nào? Học sinh cần thông qua các hoạt động nào để hiểu và làm ra được sản phẩm? 

Giáo án nội dung vì vậy chỉ là bản liệt kê các nội dung dạy học cần truyền thụ, còn giáo án phương pháp là bản thiết kế các công việc theo các việc: giao nhiệm vụ, tổ chức cho học sinh làm, thực hành, tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận và trên cơ sở đó hướng dẫn các em sơ kết, tổng kết lại vấn đề.

Giáo án là sản phẩm của mỗi cá nhân giáo viên với đối tượng và bối cảnh cụ thể, vì thế không nên bắt buộc phải giống nhau về cả nội dung, hình thức và độ dài... 

Tuy nhiên để thống nhất trong dạy học, để tất cả học sinh đều có một mặt bằng chung tối thiểu về những kiến thức và kĩ năng của một vấn đề... thì cần bắt buộc có một số nội dung cứng trong giáo án gắn với từng loại bài học của mỗi môn học. 

Với môn Ngữ văn, giáo án cho 1 bài học lớn (10-12 tiết), trong đó có các phần nhỏ (đọc hiểu, tiếng Việt, viết, nói nghe), theo tôi cần có các mục lớn sau đây:

I. Tên bài dạy: ghi tên bài học lớn trong sách giáo khoa.

II. Mục tiêu bài dạy: ghi đúng như nội dung yêu cầu cần đạt mỗi bài học lớn trong sách giáo khoa Ngữ văn; không cần thêm nội dung gì, vì yêu cầu đó đã đủ, phù hợp đối tượng.

III. Dạy đọc: ghi tên văn bản đọc 1, ví dụ: Tôi đi học (Thanh Tịnh)

1. Mục tiêu: ghi mục tiêu cụ thể sẽ hướng dẫn học sinh đọc đọc hiểu văn bản “Tôi đi học” Tập trung vào yêu cầu đọc, cân nhắc số lượng và mức độ mục tiêu cụ thể, tránh tình trạng chỉ nêu cho đẹp và sau đó không nêu được cách thực hiện mục tiêu đã nêu.

2. Thiết bị: nêu thiết bị cụ thể sẽ dùng trong giờ dạy đọc hiểu văn bản “Tôi đi học”

3. Tiến trình lên lớp, gồm các bước, trong mỗi bước có 1 hoặc nhiều hoạt động.

- Bước 1: Khởi động, nêu cách mở đầu bài học (có nhiều cách mở đầu khác nhau, giáo viên ghi cách mình sẽ thực hiện ở bài này)

- Bước 2: Tìm hiểu chung, nêu các hoạt động đọc diễn cảm, tìm hiểu chú thích, bối cảnh ra đời, tác giả...Chỉ những nội dung giúp hiểu văn bản thì mới yêu cầu học sinh tìm hiểu.

- Bước 3: Hướng dẫn đọc hiểu văn bản, nêu các hoạt động sẽ tổ chức cho học sinh lần lượt khám phá nội dung và hình thức theo các câu hỏi ghi cuối mỗi văn bản trong sách giáo khoa. Các câu hỏi này giáo viên có thể chuyển thành các phiếu học tập, các trò chơi...

Nêu rõ cách thức tổ chức: giao nhiệm vụ (làm việc theo cá nhân, cặp đôi hoặc nhóm), tổ chức cho học sinh làm việc, trao đổi, thảo luận và sơ kết vấn đề gắn với mỗi nhiệm vụ.

- Bước 4: Tổng kết bài học bằng nhiều cách khác nhau, nhưng hướng đến 2 yêu cầu:

a) Nêu khái quát giá trị nội dung và hình thức của văn bản đã đọc.

b) Rút ra cách đọc, phương pháp đọc hiểu kiểu, loại văn bản ấy.

Hoạt động “luyện tập, vận dụng” nên là 1 trong các hoạt động ở bước 3, vì mục đích cũng là để hiểu văn bản. 

Đã tổng kết bài là xong, là kết thúc bài học. Giáo án cho các phần khác (tiếng Việt, viết, nói và nghe) cũng có cấu trúc tương tự, tuy nhiên cần vận dụng linh hoạt với mỗi nội dung dạy học khác nhau.

Làm việc gì cũng thế thôi, có chuẩn bị thì kết quả sẽ thu được sẽ tốt hơn. Nhưng chuẩn bị cần hiểu đúng thực chất, không nên làm hình thức. 

Chuẩn bị giáo án cần coi là công việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên, tự giác của mỗi giáo viên, chuẩn bị giáo án tốt thì dạy học sẽ tốt hơn".

Sơn Quang Huyến

Bộ yêu cầu giáo án không "khuôn mẫu", thầy cô hãy mạnh dạn áp dụng

 


0:000:00
0:00
GDVN- Chuẩn bị giáo án trước khi lên lớp là biểu hiện cụ thể trách nhiệm, tâm huyết của người thầy với công việc, mới thực sự vì học sinh thân yêu.

Ngày 3/8/2023, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Công văn số 3899/BGDĐT-GDTrH về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2023-2024.

Công văn số 3899/BGDĐT-GDTrH ghi rõ: Thực hiện hiệu quả các phương pháp và hình thức dạy học

a) Xây dựng kế hoạch bài dạy (giáo án) bảo đảm các yêu cầu về phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, kiểm tra, đánh giá, thiết bị dạy học và học liệu, nhằm phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh trong quá trình dạy học; việc xây dựng kế hoạch bài dạy bảo đảm đủ thời gian để học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập đã đặt ra, tránh việc áp dụng hình thức, khuôn mẫu trong việc xây dựng kế hoạch bài dạy. Tiến trình dạy học mỗi bài học được xây dựng thành các hoạt động học với mục tiêu, nội dung, sản phẩm học tập cụ thể mà học sinh phải hoàn thành, cách thức thực hiện linh hoạt để tổ chức dạy học phát huy tính tự học, chủ động, sáng tạo của học sinh.[1]

Năm học 2023-2024 Bộ Giáo dục và Đào tạo không có chỉ đạo việc soạn kế hoạch bài dạy riêng cho chương trình 2018 mà tất cả đều thực hiện chung như trên.


Thầy Đỗ Ngọc Thống chia sẻ về giáo án theo định hướng phát triển năng lực

Vậy giáo viên đã thoát khỏi “ám ảnh” của công văn 5512 chưa? 

Thầy Nguyễn Văn Tuân, phó hiệu trưởng một trường học ở phía Nam chia sẻ: “Công văn số 3899/BGDĐT-GDTrH không yêu cầu kế hoạch bài dạy giáo viên phải chương trình 2018 phải thực hiện hay tham khảo theo 5512. Điều này đã gỡ bỏ được nỗi “ám ảnh” của giáo viên, nhưng vẫn có gợi ý cụ thể định hướng cho giáo viên soạn bài. 

Theo tôi, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo như thế là hợp lý, phù hợp với thực tế, đảm bảo các cơ sở giáo dục không rập khuôn trong kiểm tra hồ sơ, giáo viên có thể sáng tạo theo phẩm chất và năng lực của riêng mình”. 

Cô giáo Nguyễn Hà Anh chia sẻ: “Tôi thấy Bộ đã "bật đèn xanh" cho giáo viên sáng tạo theo một trình tự, định hướng phù hợp, không bắt giáo viên theo khuôn mẫu cụ thể nào. 

Nếu được đề xuất, tôi đề nghị từ năm học sau, Bộ cho phép giáo viên giỏi, giáo viên có kinh nghiệm tái sử dụng giáo án, không cần in mới để tránh lãng phí, cũng là đòn bẩy giúp giáo viên phấn đấu và giảm áp lực cho thầy cô”.

Bộ yêu cầu giáo án không "khuôn mẫu", thầy cô hãy mạnh dạn áp dụng ảnh 2

Ảnh minh họa: Nguồn giaoduc.net.vn

Để chỉ đạo của Bộ cho giáo viên chủ động, tránh khuôn mẫu trong xây dựng kế hoạch bài dạy thì người đứng đầu các cơ sở giáo dục phải thật sự "thông" việc này.

Không chỉ riêng giáo án, giáo viên trong thời gian qua đã phải chịu nhiều áp lực từ các loại sổ sách, Bộ cũng đã có quy định rõ các loại sổ sách mà giáo viên phải có tại Thông tư 28/2020/TT-BGDĐT, Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT.[2]

Thực tế, áp lực về sổ sách vẫn đã và đang đè nặng giáo viên vì những quy định của tổ chuyên môn, nhà trường, không thực hiện theo chỉ đạo của Bộ. 

Vì vậy, để giáo viên được chủ động sáng tạo trong soạn giảng, người viết có kiến nghị sau: 

Thứ nhất, lãnh đạo nhà trường, cộng tác viên thanh tra của Phòng, cộng tác viên thanh tra của Sở ... phải hiểu rõ, Bộ không còn quy định giáo viên phải soạn giảng theo mẫu giáo án của công văn nào. 

Thứ hai, giáo viên phải chủ động lên tiếng, phản ánh lên cấp cao hơn bất cứ lãnh đạo nhà trường, cộng tác viên thanh tra của Phòng, cộng tác viên thanh tra của Sở ... có động thái ép buộc giáo viên phải soạn giảng theo khuôn mẫu 5512 hay khuôn mẫu nào. 

Thứ ba, kiên quyết không mời những lãnh đạo nhà trường, cộng tác viên thanh tra của Phòng, cộng tác viên thanh tra của Sở ... không cập nhật chỉ đạo của Bộ tham gia các đoàn thanh kiểm tra, trợ giúp chuyên môn.

Thứ tư, các cơ sở giáo dục thực hiện ngay và luôn, cho giáo viên sử dụng hồ sơ điện tử trong năm học 2023-2024. 

Thứ năm, giáo viên cũng phải hiểu một điều, sự chuẩn bị giáo án dạy học đó chính là kết quả của suy nghĩ mình sẽ làm gì, nói gì, làm như thế nào ... để phát huy phẩm chất, năng lực của học trò, giúp học trò tiến bộ hơn so với hôm qua. 

Chuẩn bị giáo án trước khi lên lớp là biểu hiện cụ thể trách nhiệm, tâm huyết của người thầy với công việc, mới thực sự vì học sinh thân yêu. 

Tài liệu tham khảo:

[1]https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Giao-duc/Cong-van-3899-BGDDT-GDTrH-2023-nhiem-vu-giao-duc-trung-hoc-nam-hoc-2023-2024-574670.aspx

[2]https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Thong-tu-28-2020-TT-BGDDT-ve-Dieu-le-Truong-tieu-hoc-282401.aspx

[2]https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Giao-duc/Thong-tu-32-2020-TT-BGDDT-Dieu-le-truong-trung-hoc-co-so-truong-trung-hoc-pho-thong-443627.aspx

(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.

Nguyễn Nhật Minh

Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2023

Năm học 2023-2024, TPHCM sẽ giảng dạy trí tuệ nhân tạo như thế nào?

 


 10/08/2023 - 14:05 

PNO - Giáo viên TPHCM sẽ thực hiện lồng ghép kiến thức cơ bản về trí tuệ nhân tạo trong bài học, chủ đề dạy học trong năm học 2023-2024. 

Ngày 10/8, thông tin về việc giảng dạy trí tuệ nhân tạo (AI) của TPHCM trong năm học 2023-2024, Phó giám đốc Sở GD-ĐT TPHCM Nguyễn Bảo Quốc cho biết, năm học mới TPHCM sẽ tiếp tục đưa nội dung về trí tuệ nhân tạo vào giảng dạy thí điểm tại Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong Đồng thời học sinh trường THPT chuyên, trường có lớp chuyên được tìm hiểu các mô hình toán, hiểu các giải thuật AI, lập trình ứng dụng các giải thuật này vào giải quyết các vấn đề cụ thể; tìm hiểu các ứng dụng mới của AI trong các lĩnh vực, biết làm việc nhóm và cách viết báo cáo khoa học. 

Riêng học sinh lớp 8, lớp 11 được tham gia học tập với các chủ đề dạy học về AI như giới thiệu về trí tuệ nhân tạo, các ứng dụng điển hình của AI, khai thác thư viện có sẵn để ứng dụng các thuật toán đã được xây dựng. Học sinh lớp 11 được tìm hiểu về lập trình với Python, sử dụng thư viện Face-recognition... được trải nghiệm ứng dụng thực tế của AI. 

Giáo viên sẽ lồng ghép kiến thức cơ bản về AI trong các bài học, chủ đề dạy học

Đối với học sinh thực hiện Chương trình GDPT 2018, giáo viên lồng ghép kiến thức cơ bản về AI trong các bài học, chủ đề dạy học. Căn cứ vào nội dung, yêu cầu cần đạt cụ thể trong Chương trình GDPT tổng thể và bộ môn, giáo viên sẽ bổ sung, cập nhật kiến thức liên quan việc ứng dụng AI trong một số lĩnh vực cuộc sống.

Song song đó, ông Nguyễn Bảo Quốc cho biết, các trường THCS, THPT sẽ đẩy mạnh tổ chức các hoạt động, mô hình giáo dục sáng tạo, lồng ghép định hướng nghề nghiệp. Khuyến khích học sinh nghiên cứu các ứng dụng trong đời sống thực tiễn thông qua các dự án nhỏ và vừa, phù hợp lứa tuổi. Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của các câu lạc bộ, đội nhóm học thuật trong nhà trường làm nền tảng cho hoạt động học sinh nghiên cứu khoa học; đẩy mạnh giáo dục STEM, STEAM và từng bước thí điểm hoạt động giáo dục “Trí tuệ nhân tạo- AI” trong trường phổ thông. 

Ông Nguyễn Bảo Quốc cũng cho biết, trong năm học tới các trường THCS, THPT toàn thành phố sẽ triển khai một cách đồng bộ, hiệu quả hoạt động dạy học kết hợp trực tiếp với dạy học hệ thống quản lý học tập LMS và học liệu số e-learning tương tác; xây dựng các khóa học trực tuyến làm nền tảng để hoàn thiện kho học liệu số góp phần xây dựng xã hội học tập, khuyến khích người dân học tập suốt đời một cách thông minh, trên nền tảng của công nghệ truyền thông, mạng internet. 

Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại, phát huy tính chủ động, tích cực, và sáng tạo của học sinh; đẩy mạnh hoạt động chuyên đề, tổ chức trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh; tăng cường tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học cấp cụm, cấp quận và cấp thành phố để bồi dưỡng, trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm giữa các giáo viên dạy Chương trình GDPT 2018, thực hiện hỗ trợ giữa nội thành với ngoại thành và các vùng còn khó khăn.

“Năm học 2023-2024, các trường THCS, THPT trên địa bàn thành phố sẽ tiếp tục riển khai thực hiện các quy định về xây dựng, phê duyệt, sử dụng học liệu số. Xây dựng giải pháp thực hiện để đến tháng 12/ 2025, tối thiểu 35% nội dung chương trình giáo dục được triển khai dưới hình thức trực tuyến”- ông Nguyễn Bảo Quốc nói thêm.

Quốc Trung

Năm học 2023 - 2024: Khuyến khích khai thác các giải pháp trí tuệ nhân tạo phù hợp trong GDĐT

 


09:59, 22/08/2023 
(SHTT) - Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được đề ra cho năm học 2023 - 2024 là đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách hành chính, trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo khuyến khích các cơ sở giáo dục phát triển và khai thác dữ liệu lớn, giải pháp trí tuệ nhân tạo phù hợp với ngành. 

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023, triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024 vào chiều 18/8 tại Hà Nội. Theo đó, toàn ngành giáo dục sẽ tập trung vào 12 nhiệm vụ trọng tâm để triển khai hiệu quả các mục tiêu năm học 2023-2024.

Theo đó, 12 nhiệm vụ trọng tâm được Bộ đề ra bao gồm: 

Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục

Ngành giáo dục và đào tạo tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, đào tạo và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, trong đó lưu ý các vấn đề thực tiễn phát sinh cần điều chỉnh để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; tạo cơ chế, chính sách thuận lợi cho phát triển giáo dục và đào tạo.

Tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục, quản trị nhà trường theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh tự chủ, bảo đảm vai trò kiến tạo để phát triển giáo dục.

Thực hiện hiệu quả chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên

Tổ chức nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ đáp ứng yêu cầu của Chương trình giáo dục mầm non; nâng cao chất lượng thực hiện chuyên đề "Xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm giai đoạn 2021-2025"; bảo đảm an toàn cho trẻ mầm non trong các cơ sở giáo dục mầm non; tăng cường quản lý, hỗ trợ nâng cao chất lượng nhóm, lớp độc lập tư thục. Củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, khuyến khích các địa phương có điều kiện thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo.

Triển khai hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đối với lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 cấp tiểu học; lớp 6, lớp 7, lớp 8 cấp THCS; lớp 10 và lớp 11 cấp THPT. Tiếp tục thực hiện nội dung dạy học lớp 5, lớp 9, lớp 12 Chương trình giáo dục phổ thông 2006 theo hướng tinh giản, phù hợp và tiếp cận Chương trình giáo dục phổ thông 2018.

Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá tích cực theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Phát huy tính chủ động, linh hoạt của nhà trường và năng lực tự chủ, sáng tạo của tổ chuyên môn, giáo viên trong việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông. Tăng cường phối hợp giữa nhà trường, cha mẹ học sinh và các cơ quan, tổ chức có liên quan tại địa phương trong quá trình thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường.

Triển khai thực hiện chương trình xóa mù chữ, chương trình giáo dục thường xuyên cấp THCS và cấp THPT bảo đảm đảm chất lượng, hiệu quả; đa dạng hóa các chương trình giáo dục trong các cơ sở giáo dục thường xuyên, đẩy mạnh học tập thường xuyên, học suốt đời và xây dựng xã hội học tập.

Bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân tộc thiểu số, người sống ở miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và các đối tượng chính sách khác. Phát triển các phương thức giáo dục hòa nhập, chuyên biệt và bán chuyên biệt để đáp ứng quyền được học tập của người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Tăng cường hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục và xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia đối với cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông. Tổ chức tốt Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024; ban hành phương án thi tốt nghiệp THPT theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018; trình cấp có thẩm quyền phê duyệt đề án và chuẩn bị tốt các điều kiện để triển khai thực hiện phương án thi tốt nghiệp THPT từ năm 2025.

Phân tích, đánh giá và khai thác hiệu quả cở sở dữ liệu kết quả thi tốt nghiệp THPT để phục vụ công tác quản lý chuyên môn và ban hành chính sách dạy và học ở cấp THPT ở các địa phương, cơ sở giáo dục.

chuyen doi so giao duc

 

Nâng cao chất lượng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp

Tiếp tục rà soát số lượng chỉ tiêu biên chế và số lượng giáo viên hiện có của các địa phương để phối hợp với Bộ Nội vụ báo cáo Trung ương bổ sung biên chế ngành giáo dục năm học 2023-2024 trong tổng số biên chế giáo viên được bổ sung đến năm 2026 theo Quyết định số 72-QĐ/TW ngày 18/7/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về biên chế các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức chính trị-xã hội ở Trung ương và các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy khối trực thuộc Trung ương giai đoạn 2022-2026. 

Các địa phương tuyển dụng hết số biên chế giáo viên đã được giao, ưu tiên tuyển dụng giáo viên mầm non, tiểu học còn thiếu; sắp xếp, điều tiết giáo viên giữa các cơ sở giáo dục tại địa phương bảo đảm hợp lý, khắc phục tình trạng thừa thiếu giáo viên cục bộ; bố trí đủ giáo viên dạy học các môn Ngoại ngữ và Tin học để triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018; thực hiện hợp đồng giáo viên theo quy định trong trường hợp chưa tuyển đủ giáo viên; nghiên cứu xây dựng chính sách thu hút, tạo nguồn tuyển dụng giáo viên và hỗ trợ, tạo điều kiện để giáo viên yên tâm công tác.

Tiếp tục triển khai lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, THCS; chú trọng triển khai bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý, giảng dạy đáp ứng yêu cầu chuẩn hiệu trưởng, chuẩn nghề nghiệp giáo viên các cấp học mầm non, phổ thông và thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Thực hiện đào tạo giáo viên gắn với nhu cầu để bảo đảm đủ về cơ cấu, số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Triển khai có hiệu quả đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030.

Thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư cho giáo dục

Cùng với đó, có giải pháp hiệu quả để thu hút các nguồn lực hợp pháp để đầu tư cho giáo dục và đào tạo. Ưu tiên đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi và bảo đảm thiết bị dạy học tối thiểu thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Tham mưu các cấp, các ngành bổ sung ngân sách chi thường xuyên cho các cơ sở giáo dục và đào tạo để đảm bảo chi cho hoạt động giảng dạy và học tập đạt tỉ lệ tối thiểu 19% trong tổng chi thường xuyên (chưa kể chi từ nguồn thu học phí) theo quy định.

Tiếp tục ưu tiên nguồn lực của Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 và kế hoạch đầu tư công trung hạn của địa phương giai đoạn 2021-2025 để đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục.

Ưu tiên đầu tư củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú và các trường phổ thông có học sinh bán trú, trường dự bị đại học.

Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng an ninh

Tăng cường công tác chính trị, tư tưởng đối với cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên, nhân viên để tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn ngành; xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục thực sự gương mẫu, là tấm gương cho học sinh, sinh viên noi theo.

Đẩy mạnh công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, kỹ năng nghề nghiệp, việc làm cho học sinh, sinh viên; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong các cơ sở giáo dục và đào tạo; xây dựng văn hóa học đường, chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục, nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết. Tăng cường phòng, chống bạo lực học đường; hướng dẫn kỹ năng hỗ trợ, xử lý tình huống cho giáo viên, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục và kỹ năng tự xử lý cho học sinh khi gặp các tình huống có liên quan đến bạo lực học đường.

Tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên, viên chức, người lao động theo từng đối tượng trong các cơ quan, đơn vị, cơ sở giáo dục có hiệu quả. Phát huy vai trò của giáo dục quốc phòng, an ninh trong giáo dục ý thức, trách nhiệm công dân, giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào, tự tôn dân tộc.

Tăng cường công tác giáo dục thể chất, bảo đảm an toàn trường học

Triển khai hiệu quả công tác giáo dục thể chất và y tế trường học, bảo đảm an toàn trường học, phòng chống dịch bệnh và tai nạn thương tích. Tăng cường tổ chức bữa ăn bảo đảm dinh dưỡng hợp lý và an toàn thực phẩm, kết hợp tăng cường hoạt động thể lực cho học sinh; kiện toàn và nâng cao năng lực hệ thống y tế trường học. Hoàn thiện cơ sở dữ liệu về sức khỏe học đường.

Tổ chức, triển khai hiệu quả chương trình "Sức khỏe học đường giai đoạn 2021-2025", chương trình "Y tế trường học trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông gắn với y tế cơ sở giai đoạn 2021-2025"; Đề án tổng thể phát triển giáo dục thể chất, thể thao trường học giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025; tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động thể thao học sinh, sinh viên gắn kết với nội dung môn học giáo dục thể chất thuộc Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và tổ chức tốt hội khỏe phù đổng các cấp lần thứ 10 năm 2024.

Quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, đẩy mạnh thực hiện tự chủ đại học 

Xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050. Đẩy mạnh triển khai tự chủ đại học theo hướng đi vào chiều sâu, gắn với thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch thông tin theo quy định; ổn định phương thức tuyển sinh; tổ chức thực hiện chuẩn chương trình đào tạo và các giải pháp bảo đảm chất lượng; tăng cường phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đẩy mạnh nghiên cứu về khoa học giáo dục.

Có chính sách thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài hợp tác nghiên cứu, đào tạo trong các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam; đẩy mạnh việc thu hút sinh viên quốc tế đến học tập tại Việt Nam. Khuyến khích mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác về đào tạo, nghiên cứu với các trường, viện nghiên cứu quốc tế chất lượng cao để hình thành nhóm nghiên cứu mạnh; thu hút các nguồn tài trợ quốc tế, chủ động tham gia mạng lưới nghiên cứu và trao đổi toàn cầu.

Xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện Chương trình phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022-2030; đẩy mạnh kiểm định chất lượng giáo dục trong nước về cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo; tăng cường công tác bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục các cấp học, trình độ đào tạo; quản lý văn bằng chứng chỉ thống nhất và hướng đến hội nhập quốc tế.

Hội nhập quốc tế trong giáo dục

Tăng cường hội nhập quốc tế, chủ động mở rộng hợp tác song phương, đa phương; thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nước ngoài cho giáo dục và đào tạo. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học nước ngoài về đào tạo, nghiên cứu khoa học; đẩy mạnh việc thu hút sinh viên, nhà khoa học có uy tín ở nước ngoài đến học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam.

Tăng cường công tác quản lý hoạt động của các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài và tổ chức kinh doanh dịch vụ tư vấn du học. Triển khai hiệu quả các đề án, chương trình học bổng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ngoài có sử dụng ngân sách Nhà nước. Đẩy mạnh công tác quản lý công dân Việt Nam ra nước ngoài học tập, giảng dạy, nghiên cứu khoa học và trao đổi học thuật.

Khuyến khích kiểm định chất lượng giáo dục của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục quốc tế được công nhận hoạt động ở Việt Nam; khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam tham gia xếp hạng đại học của các tổ chức xếp hạng uy tín thế giới. Tích cực tham gia các chương trình đánh giá chất lượng giáo dục quốc tế đối với giáo dục, đào tạo (PISA, PASEC...).

Đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách hành chính

Tăng cường chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, dạy học và kiểm tra đánh giá. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện các cơ sở dữ liệu ngành giáo dục, kết nối liên thông dữ liệu trong ngành giáo dục và kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường thực hiện thủ tục hành chính qua dịch vụ công trực tuyến và bộ phận một cửa, một cửa liên thông. Triển khai thực hiện hiệu quả đề án "Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030", đề án "Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025".

Khuyến khích phát triển và khai thác dữ liệu lớn, giải pháp trí tuệ nhân tạo phù hợp trong giáo dục đào tạo.

Capture

 

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục và đào tạo nhằm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi sai phạm trong giáo dục và đào tạo. Tập trung thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục của UBND các cấp; kết quả thực hiện nhiệm vụ năm học 2022-2023 và việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018; việc thực hiện tự chủ giáo dục đại học, mở ngành, hoạt động tuyển sinh và đào tạo các trình độ của giáo dục đại học; các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục và trách nhiệm giải trình xã hội của các cơ sở giáo dục đại học. Kiểm tra các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài, trung tâm ngoại ngữ, tin học; kiểm tra hoạt động dạy thêm, học thêm; kiểm tra, đánh giá hiệu quả đầu tư, sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học tại các cơ sở giáo dục.

Tiếp tục thực hiện các phong trào thi đua

Tiếp tục triển khai thiết thực, hiệu quả các phong trào thi đua do Thủ tướng Chính phủ phát động đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo; phong trào thi đua "Đổi mới, sáng tạo trong quản lý, giảng dạy và học tập" gắn với việc "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh".

Tổ chức triển khai phong trào thi đua "Cả nước xây dựng xã hội học tập, đẩy mạnh học tập suốt đời giai đoạn 2023-2030". Thực hiện tốt các chính sách về thi đua, khen thưởng nhằm thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước, coi thi đua là động lực để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện

Tăng cường công tác truyền thông giáo dục

Chủ động thông tin, truyền thông về các chủ trương, chính sách mới của ngành và việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tăng cường phối hợp, xử lý hiệu quả các vấn đề về truyền thông, nhất là các vấn đề xã hội quan tâm, bức xúc để xã hội, nhân dân hiểu, chia sẻ, ủng hộ với ngành giáo dục.

Nguyễn Huế

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates