Đàn organ phím sáng BEE KL-4.0 lưu trữ nhạc giáo dục Việt Nam
Giải pháp học piano trực tuyến trọn gói - Công nghệ Mỹ- Giáo dục Việt.
Đàn organ phím sáng BEE KL-4.0 lưu trữ nhạc giáo dục Việt Nam
Giải pháp học piano trực tuyến trọn gói - Công nghệ Mỹ-Giáo dục Việt
Đàn organ phím sáng BEE KL-4.0 lưu trữ nhạc giáo dục Việt Nam
Giải pháp học piano trực tuyến trọn gói - Công nghệ Mỹ-Giáo dục Việt
Thứ Sáu, 31 tháng 1, 2020
TOP những trường âm nhạc danh tiếng trên thế giới
tháng 1 31, 2020
No comments
TOP NHỮNG TRƯỜNG VỀ ÂM NHẠC DANH TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI
Nếu cần tìm câu trả lời về một ngành học hấp dẫn dành cho những ai yêu thích về giai điệu, có sự cảm nhận tinh tế đối với âm thanh thì đó phải là ngành âm nhạc. Âm nhạc dù đã trải qua nhiều biến đổi từ những ngày đầu sơ khai của nền văn minh nhân loại cho đến hiện tại với sự trợ giúp của nhiều công nghệ điện tử hiện đại thì nó vẫn mang một nét đẹp mê hoặc sẵn sàng cuốn hút mọi trái tim. Có rất nhiều trường học, khóa học giảng dạy về Âm nhạc trên toàn Thế Giới với nhiều chuyên ngành khác nhau. Những trường học ở các quốc gia hàng đầu thế giới về Âm nhạc này, bạn có thể theo học cách sản xuất âm nhạc, soạn nhạc đến lịch sử hay lí thuyết âm nhạc nhân loại. Vậy nếu bạn đang có mong muốn du học một trường đào tạo về âm nhạc danh tiếng để có cơ hội phát triển bản thân cao hơn thì Việt Thương Music có một số gợi ý dành cho bạn.
Goldsmiths, University of London, Anh
Goldsmiths: Một cộng đồng gần gũi, một di sản học thuật phong phú, một cường quốc sáng tạo, một nơi kích thích tư duy.
Là trường đại học thuộc nhóm trường của University of London, Goldsmiths là một trường đại học nghiên cứu công cộng chuyên về nghệ thuật, thiết kế, nhân văn và khoa học xã hội. Được thành lập vào năm 1891 như một trường cao đẳng kỹ thuật bởi Worshipful Company of Goldsmiths. Với bầu không khí sang tạo không hạn chế và nhận được hơn 20 đề cử giải Turner, Goldsmiths cũng có một bộ phận âm nhạc nổi tiếng thế giới. Gần 20% sinh viên đến từ bên ngoài Vương quốc Anh và 52% trong số tất cả sinh viên đại học là sinh viên trưởng thành (từ 21 tuổi trở lên khi bắt đầu học). Khoảng một phần ba sinh viên tại Goldsmiths là sinh viên sau đại học.
London College of Music, Anh
London College of Music (Trường Cao đẳng Âm nhạc Luân Đôn) được thành lập vào năm 1887 và tồn tại với tư cách là một học viện âm nhạc độc lập đặt tại đường Great Marlborough Street ở trung tâm Luân Đôn cho tới năm 1991. Sau đó, trường chuyển cơ sở đến quận Ealing và là một trong tám trường trực thuộc trường Đại học West London.
Trường có hệ thống kiểm định âm nhạc riêng gọi là London College of Music Examinations (thường được gọi tắt là LCM Examinations). Đây là một trong bốn cục khảo thí âm nhạc duy nhất trên toàn lãnh thổ Vương Quốc Anh được kiểm định và công nhận bởi Hệ thống Kiểm Định Chất Lượng Giáo dục Anh Quốc. Cục khảo thí LCM Examinations của trường nổi tiếng nhờ có được nhiều chuyên gia uy tín trong lĩnh vực âm nhạc và âm thanh. Học viên có bằng LCM sẽ được chấp nhận du học, giảng dạy tại nhiều quốc gia, khu vực khác nhau trên thế giới.
Royal College of Music, Anh
Royal College of Music là một trường dạy âm nhạc đã đào tạo nên các nhạc sỹ vì sự nghiệp quốc tế được thành lập bởi Hiến chương Hoàng gia năm 1882, tọa lạc tại London, Vương quốc Anh. Trường đào tạo từ bậc đại học đến tiến sĩ về tất cả các khía cạnh của Âm nhạc phương Tây bao gồm sáng tác, biểu diễn, lý thuyết, lịch sử âm nhạc,... Với hơn 660 sinh viên đến từ 54 quốc gia đang theo học trình độ đại học, thạc sỹ và tiến sỹ, Royal College of Music là một cộng đồng các nhạc sỹ tài năng và xuất sắc được đánh giá cao.
Trường được mệnh danh là tổ chức hàng đầu về Nghệ thuật biểu diễn ở cả Vương quốc Anh và Châu Âu trong Bảng xếp hạng Đại học Thế giới QS 2018. Trường là một trong bốn nhạc viện của Hội đồng liên kết các trường âm nhạc hoàng gia và là thành viên của Nhạc viện Anh . Các tòa nhà của nó nằm đối diện trực tiếp với Hội trường Hoàng gia Albert trên đường Prince Consort , bên cạnh Đại học Hoàng gia và trong số các bảo tàng và trung tâm văn hóa của thành phố Albertopolis.
The Juilliard School, New York, Mỹ
Thành lập vào năm 1905, Trường Juilliard được đánh giá là một trong những trường hàng đầu về giáo dục nghệ thuật biểu diễn. Trường cung cấp một chương trình giáo dục nghệ thuật tầm cỡ cao nhất cho các nhạc sĩ, vũ công và diễn viên tài năng từ khắp nơi trên thế giới để họ có thể phát huy tiềm năng tối đa của mình. Nằm tại Trung tâm Lincoln ở thành phố New York, Juilliard cung cấp bằng đại học và sau đại học về những ngành học Âm nhạc, gồm có Jazz, Kỹ thuật Âm nhạc, Âm nhạc Truyền thống và Thanh nhạc học, Opera, Học viện Julliard và những khoá học dành riêng cho các vũ công và diễn viên kịch.
Trường có hệ thống cơ sở vật chất hiện đại nhất thế giới, điển hình là trung tâm hoà nhạc Lincoln Center for the Performing Arts, nằm ngay trong khuôn viên học viện dành riêng cho những sinh viên học tập tại đây. Ngôi trường này nổi tiếng với những yêu cầu rất gắt gao trong việc tuyển sinh, nó được coi là một trong những trường dạy kịch, âm nhạc và khiêu vũ hàng đầu thế giới. Hiện tại hơn 850 nghệ sĩ từ 44 tiểu bang và 42 quốc gia và khu vực đang theo học tại Juilliard, nơi họ xuất hiện trong hơn 700 buổi biểu diễn hàng năm tại 5 nhà hát của trường, tại hội trường Alice Tully và David Geffen của Trung tâm Lincoln và tại Hội trường Carnegie cũng như các địa điểm khác xung quanh thành phố New York, nước Mỹ và thế giới.
"Trong những năm tới, chúng tôi sẽ nắm bắt cơ hội để phát triển hơn nữa dựa trên nền tảng giáo dục xuất sắc của mình, khuyến khích quy mô tác sáng tạo ngày càng rộng lớn, phá vỡ nền tảng nghệ thuật mới và cũng mang đến những phẩm chất nghệ thuật có giá trị đặc biệt trên thế giới." - Damian Woetzel, Chủ tịch Trường Juilliard.
Berklee College of Music, Boston, Mỹ
Năm 1945, nghệ sĩ piano, nhà soạn nhạc Lawrence Berk đã thành lập Schillinger House, tiền thân của Trường Âm nhạc Berklee. Năm 1962, Berklee cung cấp chuyên ngành nhạc cụ cấp đại học đầu tiên cho guitar, khoa guitar ban đầu có chín sinh viên và ngày nay nó là chuyên ngành nhạc cụ lớn nhất tại trường. Năm 1969, các khóa học mới về nhạc rock và âm nhạc đại chúng đã được thêm vào chương trình giảng dạy, lần đầu tiên được cung cấp ở cấp đại học. Berklee là học viện âm nhạc đương đại và nghệ thuật biểu diễn, cung cấp các chương trình cấp bằng đại học và sau đại học tại các cơ sở của nó ở Boston, Massachusetts và Valencia, Tây Ban Nha.
Phương châm của Học viện Berklee là xây dựng nên một môi trường giảng dạy về âm nhạc đương thời và các kỹ năng cần thiết để học viên có thể trở thành một nghệ sỹ đa năng. Tại Berklee College of Music và Boston Nhạc viện tại Berklee, sinh viên được học các chương trình về âm nhạc, khiêu vũ, sân khấu, phim ảnh, kinh doanh, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, công nghệ,... Không chỉ giữ chất lượng hàng đầu trong đào tạo, sinh viên Học viện Âm nhạc Berklee còn tự hào bởi cơ sở vật chất hiện đại mang tầm cỡ trung lưu. Tốt nghiệp cử nhân ngôi trường này đã là mơ ước của rất nhiều người.
Berklee College of Music
California Institute of the Arts, Mỹ
Các Viện Nghệ thuật California (CalArts) là một tin trường đại học nghệ thuật trong Los Angeles ngoại ô Santa Clarita, California , Hoa Kỳ. Được thành lập bởi Walt Disney vào năm 1961, “CalArts” – là cách gọi trìu mến gọi của nhân viên và sinh viên đối với trường. Là cơ sở giáo dục đầu tiên của Mỹ cấp bằng trong cả nghệ thuật thị giác và biểu diễn, trường cung cấp đa dạng các lựa chọn của chương trình trong trường nghệ thuật, nghiên cứu phê bình, khiêu vũ, phim ảnh, âm nhạc và sân khấu.
CalArts cung cấp các chương trình cấp bằng về âm nhạc, nghệ thuật, khiêu vũ, phim và video, hoạt hình, sân khấu, múa rối và viết. Sinh viên được đào tạo chuyên nghiệp chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực với mục đích nghề nghiệp của họ mà không bị đưa vào một khuôn mẫu cứng nhắc. Trọng tâm của nó là trong nghệ thuật đương đại, và sứ mệnh đã nêu của trường là phát triển các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Với những mục tiêu này, trường khuyến khích sinh viên nhận ra sự phức tạp của các câu hỏi chính trị, xã hội, thẩm mỹ và trả lời chúng bằng phán đoán độc lập, có hiểu biết.
Các trường tại CalArts bao gồm: Trường nghệ thuật, Trường nghiên cứu, Trường phim / video, Trường Âm nhạc Herb Alpert, Trường sân khấu, Trường khiêu vũ Sharon Disney Lund.
California Institute of the Arts: CalArts
Le Conservatoire de Paris, Pháp
Paris Conservatoire de Paris (Học viện Âm nhạc) giữ một vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển âm nhạc của Pháp, Tây Âu và được thành lập vào năm 1795. Toạ lạc tại thành phố lãng mạn nhất thế giới, Học viện Âm nhạc Paris nổi tiếng với những khoá học Âm nhạc, Vũ đạo và Sản xuất Âm nhạc. Học viện gồm có các ngành Lịch sử Âm nhạc, Âm nhạc học, Thanh nhạc học, Chỉ huy Dàn nhạc, Jazz và các nhạc cụ cổ điển.
Năm 1990, sau 6 năm tái xây dựng, các phòng mới của nhạc viện, được khánh thành trong Cité de la musique (Thành phố Âm nhạc). Nhạc viện bây giờ có hơn 1200 sinh viên theo học, và do 350 giáo viên giảng dạy trong 9 Phân khoa (départements). Sau khi tốt nghiệp, các sinh viên có cơ hội làm việc trong dàn nhạc của trường, biểu diễn tại các chương trình, lễ hội và địa điểm cực kỳ nổi tiếng. Để được nhập học, các bạn tham gia tuyển sinh phải vượt qua kỳ thi viết và kiểm tra kỹ năng thực hành tuỳ thuộc vào chuyên môn dự tuyển.
Conservatoire de Paris
The Städel School, Frankfurt, Đức
Trường đại học nhà nước về mỹ thuật mang tên “Städelschule” ở Frankfurt là một trong những học viện nghệ có truyền thống lâu đời nhất của Đức, tọa lạc tại Frankfurt am Main, miền trung nước Đức. Các ngành học về mỹ thuật và kiến trúc được nhiều sinh viên quốc tế lựa chọn theo học, rất nhiều nghệ sỹ Đức và quốc tế có tiếng đang giảng dạy tại đây. Trường nhận khoảng 20 sinh viên mỗi năm từ 500 ứng viên và có tổng số khoảng 140 sinh viên nghệ thuật và 50 kiến trúc. Khoảng 75% sinh viên không đến từ Đức và các khóa học được dạy bằng tiếng Anh.
Đang đi đầu trong nghệ thuật đương đại, trường nổi tiếng thế giới tự hào có một bộ phận sinh viên đa dạng với hơn 60 phần trăm học sinh - cũng như nhiều giáo sư đến từ nhiều nước khác nhau. Năm 1987, Nhà triển lãm không gian Portikus của học viện được thành lập và đã trở thành một trung tâm quốc tế hàng đầu cho nghệ thuật thực nghiệm, cho thấy công việc của các nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới với hơn 180 cuộc triển lãm cho đến nay.
Những trường đào tạo âm nhạc nổi tiếng tại Châu Á gồm có:
Đại học Âm nhạc Toho, Nhật
Đại học âm nhạc Toho được thành lập năm 1948 tại Kudan (Tokyo). Trường đại học Âm nhạc Toho là trường đại học đào tạo chuyên sâu về âm nhạc. Đây là trường đại học đi đầu trong hoạt động về âm nhạc tại Nhật. Du học Nhật ngành âm nhạc tại ngôi trường này, sinh viên sẽ được thực hành âm nhạc với thiết bị chuyên dụng trong các công đoạn sản xuất âm nhạc như phòng thu, sân khấu hòa nhạc.
Đây là cái nôi đào tạo ra những chuyên gia âm thanh tỉ mỉ đến từng tiếng động nhỏ nhất. Trong quá trình học tập tại trường Đại học Toho. Sinh viên sẽ có cơ hội được tham gia vào rất nhiều các buổi hòa nhạc và sự kiện âm nhạc lớn của các nghệ sĩ thực thụ của Nhật. Từ đây, sinh viên có thể tiếp cận và học hỏi cách làm việc trong thực tế nâng cao kỹ năng bản thân.
Đại học Âm nhạc Showa, Nhật
Đại học Âm nhạc Showa là một phần của Tổ chức Giáo dục Tosei Gakuen. Đây là trường thứ 2 trong danh sách những trường đại học đào tạo ngành âm nhạc tốt nhất tại Nhật Bản. Bạn có thể chọn du học Nhật ngành âm nhạc tại Showa với các hệ cao đẳng (2 năm), hệ đại học (4 năm), thạc sĩ (2 năm) và tiến sĩ (học 3 năm). Chương trình giảng dạy của trường nổi tiếng về tư duy tiến bộ trong giáo dục âm nhạc.
Bắt đầu một cơ sở đào tạo opera chuyên ngành The The Trường nhạc Tokyo Seisen vào năm 1940, thông qua lịch sử của nó, trường học đã phát triển thành một nhạc viện âm nhạc bao gồm từ âm nhạc cổ điển phương Tây truyền thống, nhà hát âm nhạc, múa ba lê đến nhạc phổ biến và nhạc jazz. Là một trong những trường âm nhạc đầu tiên ở Nhật Bản bắt đầu các khóa học như trị liệu âm nhạc, quản lý nghệ thuật, nhân viên sân khấu và múa ba lê, vai trò của trường rất rõ ràng là tiên phong trong giáo dục âm nhạc Nhật Bản. Các chương trình tại trường hiện nay là
Hệ cao đẳng: Sản xuất sự kiện, Nhạc Vocal, Nghệ thuật tự do, Sư phạm âm nhạc, Nhạc số, Jazz, Ballet, Âm nhạc và xã hội
Hệ đại học: Khoa Nghệ thuật: Thành phần và thiết kế âm thanh. Sản xuất âm thanh. Biểu diễn Piano. Sư phạm Piano. Trình tạo nhạc Piano. Organ. Nhạc Vocal, Jazz.
Quản lý Âm nhạc và Nghệ thuật: Quản lý nghệ thuật, Diễn viên sân khấu, Giải pháp âm nhạc, Thanh nhạc, múa Bale, Nghệ thuật tự do âm nhạc,
Chương trình thạc sĩ: Biểu diễn âm nhạc Vocal, Opera, Piano, Bộ gõ, Tổ chức điện tử, sản xuất âm nhạc,Quản lý âm nhạc, Trị liệu âm nhạc, Biểu diễn nhạc cụ gõ ống.
Chương trình tiến sĩ: Nghệ thuật âm nhạc, Quản lý nghệ thuật và Trị liệu âm nhạc.
Tokyo University of the Arts, Tokyo, Nhật
Thành lập vào những năm 1940 sau sự sáp nhập của 2 trường đại học lâu đời là trường Mỹ thuật Tokyo và Trường Âm nhạc Tokyo, Tokyo University of the Arts được biết đến là một trong những trường nghệ thuật lâu đời nhất tại đất nước mặt trời mọc. Từ khởi đầu của nó, hơn một thế kỷ trước, trường đại học đã đóng một vai trò lớn trong nghệ thuật của đất nước này, sản sinh ra nhiều nghệ sĩ và nhạc sĩ tốt.
Tokyo University of the Arts là một trong những trường uy tín nhất trên thế giới trong việc nghiên cứu giảng dạy nghệ thuật và âm nhạc. Nhiệm vụ của trường là đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển hơn nữa văn hóa nghệ thuật ở Nhật Bản, đồng thời tôn trọng tinh thần tự do và sáng tạo đã tồn tại từ khi thành lập trường đại học như là trường đại học nghệ thuật quốc gia toàn diện duy nhất ở Nhật Bản.
Tokyo University of the Arts
Nanyang Academy of Fine Arts, Singapore
Trường Nanyang Academy of Fine Arts Singapore (NAFA) là trường chuyên về nghệ thuật, âm nhạc nổi tiếng nhất Singapore với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại nằm ngay tại trung tâm Singapore. Tổ chức này cũng cung cấp các chương trình cấp bằng đại học cho sinh viên tốt nghiệp Văn bằng Bách khoa của NAFA hoặc Singapore hợp tác với các trường đại học danh tiếng ở Singapore và Vương quốc Anh.
Trường Nanyang Academy of Fine Arts đang tuyển sinh các ngành học: thiết kế nội thất, truyền thông, điều hành nghệ thuật, âm nhạc, múa, sân khấu, thiết kế thời trang, thiết kế quảng cáo & marketing.. Trong đó ngành âm nhạc gồm có: Thanh nhạc, Piano, Organ, Sáo, Saxophone, Violin, Guitar, Nhạc cụ truyền thống Trung Hoa, Giảng dạy về âm nhạc.
Edith Cowan University, Úc
Được thành lập vào năm 1991, Edith Cowan University đã phát triển nhanh chóng thành một trường đại học chất lượng với sự hài lòng của sinh viên và nghiên cứu được quốc tế công nhận. Trường hiện đang phát triển nhanh chóng và đã có tên trong danh sách 150 trường đại học dưới 50 năm tuổi tốt nhất thế giới vào năm 2018 theo Times Higher Education Young University Rankings.
Đại học Edith Cowan là một trường đại học công lập của Úc nằm ở Perth, Tây Úc với hơn 30.000 sinh viên ở bậc đại học và sau đại học, khoảng 6.000 trong số đó là sinh viên quốc tế có nguồn gốc từ hơn 100 quốc gia bên ngoài Úc. Rất nhiều ngành học được giảng dạy tại Khoa Nghệ thuật & Nhân văn, trải dài từ nghệ thuật đương đại đến khoa học xã hội. Sinh viên được khuyến khích theo học các nhóm môn học trên ở nhiều ngành khác nhau để có được một nền giáo dục phổ quát.
Edith Cowan University Western Australia
Kết
Hầu hết các sinh viên ngành nhạc thường có dự định làm việc với tư cách nhạc sĩ hoặc ít nhất là để làm việc trong lĩnh vực này sau khi tốt nghiệp. Một trong những lựa chọn khác là trở thành giáo viên dạy nhạc ở trường phổ thông hay tổ chức các khóa dạy kèm. Khi theo đuổi về ngành âm nhạc, để đạt được kết quả tốt bạn không những cần một nền tảng tốt mà còn cần tìm được cho mình một môi trường tiếp theo để phát triển thật tốt. Với một số trường học trên đây, bạn sẽ có thể phát triển tài năng trong chuyên ngành theo học và tự tin với đam mê âm nhạc của mình.
Mozart: Con người đằng sau những lá thư
tháng 1 31, 2020
No comments
13/01/2019 08:00 - Elizabeth Jane Timms
Dưới góc nhìn độc đáo của một nhà nghiên cứu lịch sử, Elizabeth Jane Timms đã tiết lộ một Mozart đời thường bên cạnh một Mozart – nhà soạn nhạc thiên tài thế kỷ 18, thông qua việc phân tích các bức thư ông gửi từ Prague, Czech.
Nhà soạn nhạc Mozart trong một bức vẽ thế kỷ 19. Nguồn: mariinsky-theatre.com
Chúng ta đã rất quen với việc “nghe” Mozart như nghe một bản giao hưởng hay một khúc aria; nhưng lắng nghe chính con người thực bên ngoài địa hạt âm nhạc của ông, đọc những lời ông thực sự nói thì lại là chuyện khác. Thư từ của Mozart là độc nhất vô nhị. Giống như thư từ của các nhà soạn nhạc khác, chúng đem đến cho chúng ta một góc nhìn sâu sắc hiếm có vào con người đằng sau âm nhạc của Mozart.
Mozart - người phàm
Từ lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu đã áp dụng nhiều cách tiếp cận để so sánh bản thảo âm nhạc viết tay với thư từ của Mozart, tìm ra các mẫu hình về cả cấu trúc lẫn phong cách nhằm tìm kiếm điểm chung có thể có trong quá trình sáng tạo. Đôi khi có những lời đồn đại phổ biến, rằng các bản thảo âm nhạc gốc của Mozart được viết ra mà không cần chỉnh sửa, do đó càng dẫn đến quan điểm nhầm lẫn: dù đã trưởng thành thì ông vẫn là thần đồng vùng Salzburg được Chúa trời đọc cho chép lại tác phẩm ngay từ lần nghe đầu tiên. Trong khi đó, những gì biết được thông qua thư từ của Mozart lại cho thấy ông là thực sự là một người phàm; đồng hiện hữu bên cạnh con người nhạc sĩ, điều đó đã tổng hòa nên cái tôi riêng của ông. Là một phần của những gì thoáng qua trong cuộc sống thường nhật của ông, những lá thư này cho ta cái nhìn thấu đáo vào một thế giới thú vị hơn nhờ vào tính “tầm thường” của nó, ví dụ trong một lá thư gửi một người bạn thân, ông kể với vẻ vô tình (nhưng lại quan trọng như một phần của câu mở đầu lá thư): “Biểu diễn vào ngày 29/10, vở opera Don Giovanni của tôi được khán giả tán dương nồng nhiệt.”
Điều quan trọng là những lá thư của Mozart là một mảnh ghép cho thấy một phần con người ông mà chúng ta cảm nhận được bằng xương bằng thịt chứ không phải một pho tượng; chúng đắp bồi “da thịt” vào nhân vật huyền thoại thay cho một vị thần được tạc từ đá cẩm thạch.
Vậy chúng cho chúng ta thấy điều gì về người nhạc sỹ thiên tài này? Những lá thư gửi từ Prague còn sót lại của Mozart phản ánh phần nào kết quả lao động của người nhạc sĩ. Chúng được viết như thể ông biết tài năng đích thực của mình không nằm trong những con chữ, việc viết thuần túy chỉ để truyền tải thông tin, tuy nhiên cũng “vay mượn” một khía cạnh thiên tài của ông. Ngược lại, những lá thư đầy cảm xúc từ Paris ông gửi cho cha là Lepold Mozart kể về cái chết của mẹ – bà Maria Anna Mozart vào năm 1778, lại mộc mạc đến kỳ lạ và hết mực chua xót bởi cách thức thương tâm mà ông báo tin về gia đình từ nơi xa tít tắp. Những lá thư gửi người em họ của mình, Maria Thekla Mozart – hay còn được gọi là ‘những lá thư Bäsle’ – là một trường hợp riêng biệt rõ rệt. Dù phong cách thể hiện của chúng gây sốc cho những ai không thể gộp chung hình ảnh một nhà soạn nhạc của những giai điệu hiền hòa, bay bổng với hình ảnh tác giả của những lá thư này thì chúng vẫn giúp gợi nhắc cho ta tính người của nhà soạn nhạc Mozart, cũng như những gì có lẽ là một sự giải tỏa rất cần thiết để ông “xả” những nỗi bực dọc trước sức ép phải sáng tác liên tục. Và quan trọng hơn, chúng cũng cho thấy, thư từ không phải lúc nào cũng chỉ để Mozart thông báo tin tức.
Một trong những bức thư còn sót lại của Mozart. Nguồn: praguepost.com
Những lá thư Mozart gửi từ Prague cũng rất thực tế, nó thể hiện một con người đang trong một hành trình, thi thoảng dừng lại miêu tả nơi mình đã dừng chân trên đường, nơi mình đã gửi những lá thư, người mình đã gặp và ở phạm vi hẹp hơn là những việc mình đã làm. Những lá thư rong ruổi trên đường này của Mozart không giống như những lá thư nghiêm túc hơn được cha ông, Leopold Mozart, gửi về quê nhà Salzburg, với hi vọng chúng sẽ là những bản tin nhanh cho những người thân của gia đình tại quê nhà. Trên thực tế, những lá thư trên những hành trình âm nhạc này có lẽ là minh chứng hay nhất về lối sống bận rộn của ông những khi chuẩn bị cho một vở opera, tổ chức một buổi hòa nhạc, đi thăm một người bạn. Đôi khi ta cảm nhận là chỉ khi tận dụng được thời gian, ông mới kịp vơ lấy bút viết thư – ông từng thừa nhận điều này trong một lá thư từ Prague gửi cho Gottfried von Jacquin – một người bạn ở Vienna: “Cuối cùng thì tôi cũng có thì giờ viết cho anh…” quả thực, ông đã viết thêm rằng mình định viết bốn lá thư nhưng cuối cùng chỉ được một: “và thậm chí bức này cũng chỉ viết được một nửa – vợ tôi và Hofer [nghệ sĩ violin cung đình đã đi cùng họ đến Prague] đã phải hoàn thành nó”. (ed. Cliff Eisen, Mozart: A Life in Letters, Pg 520, 2006). Khi đọc kĩ, có thể thấy những lá thư này thậm chí có vẻ kích động, nhưng phản ánh chân thật về nhịp sống của Mozart khi ông viết chúng. Do đó, những bức thư Prague của Mozart đã góp phần hình thành một cái nhìn vi tế về cuộc đời ông. Chúng luôn tràn đầy năng lượng nên khi đọc chúng, ta có cảm giác sự hoạt động liên tục của ông: “Vừa tới nơi… chúng tôi lại hối hả chạy đi để ăn trưa lúc một giờ…” (Ibid, Pg 520).
Cái nhìn về đời sống âm nhạc Prague
Không chỉ phản ánh một phần cuộc sống của Mozart, những lá thư ông viết từ Prague bộc lộ một cái nhìn sâu sắc độc đáo về thành phố mà ông đã đến lần đầu vào năm 1787 – thời điểm danh tiếng của tác giả vở opera Le Nozze di Figaro đã được biết đến ở thành phố này từ trước, như lời ông miêu tả trong lá thư đầu tiên được viết ở đây. Prague của Mozart là một nơi thực tế, là một thành phố có công chúng âm nhạc chào đón ông nồng nhiệt trước khi ông thực sự đến đấy và có những đôi tai sành điệu đã được ông đánh giá cao bằng món quà là vở opera Don Giovanni và dĩ nhiên cả bản giao hưởng K504 ‘Prague’. Prague của ông là một Prague của nhà hát, bè bạn, những buổi diễn tập, những chuyến thăm, những cây đại phong cầm, những trạm bưu điện.
Nếu chỉ tính những lá thư còn sót lại của Mozart thì ông chỉ viết cho hai người từ Prague là vợ ông, Constanze và người bạn Gottfried von Jacquin. Những lá thư cho Constanze được viết khi bà không đi cùng ông, như trong trường hợp năm 1789. Nhiều giấy tờ khác còn sót lại được Mozart viết gửi tới von Jacquin hoặc gia đình ông – nay nằm trong cơ sở dữ liệu của trường Đại học Mozarteum, Salzburg; chúng còn là lời đề tặng Joseph Franz von Jacquin cùng với luân khúc đôi KV 288 (515b) do thư viện Bibliotheca Mozartiana lưu giữ và một lá thư viết từ Vienna gửi Gottfried von Jacquin sau tháng 5/1787, đề cập đến việc cha ông qua đời; lá thư sau đã được bán tại nhà bán đấu giá Christie ở Paris vào ngày 26/11/2003, đến nay là tài sản riêng của người thắng cuộc.
Ngày nay, vở “Don Giovanni” được trình diễn nhiều lần tại nhà hát Estates. Nguồn: Prague TV.
Lá thư đầu tiên gửi von Jacquin từ Prague đọc giống như một bản thảo âm nhạc viết tay theo nhiều cách bởi những mối liên quan đến âm nhạc bên trong nó: thư đề cập đến buổi vũ hội ông dự vào ngay buổi tối đến Prague, trong đó âm nhạc của vở opera Figaro đã được dùng thay cho những khúc dân vũ và vũ khúc Đức. Ngày hôm sau ông nhấn mạnh việc vì về trễ sau buổi vũ hội mà “cả sáng hôm sau lại ‘sine linea’ (không sáng tác được một dòng nhạc nào)”. Điều này được nhắc đến hẳn vì việc không thể dành thời gian cho sáng tác là bất bình thường; dòng tiếp theo tiếp tục nói rằng có một cây đàn pianoforte đặt trong phòng dành cho ông tại Cung điện Thun và ông đến đó “mà không biết là chúng tôi phải chơi một tứ tấu nhỏ…”; đêm đó cũng lại trôi qua mà không có sáng tác vì lần này ông còn bận chơi nhạc. Cũng trong thư này, ông viết mình đến nhà hát và kể về việc khi nào sẽ diễn ra buổi hòa nhạc của ông; nó diễn ra vào ngày 19 tháng Một và là dịp Mozart ra mắt bản giao hưởng K504 ‘Prague’, cùng những ứng tác từ Figaro. Ông cũng viết trong lá thư gửi von Jacquin rằng đã lên kế hoạch đi xemFigaro tại Prague, vì ‘ở đây họ chẳng nói gì ngoài Figaro; không chơi, hát hay huýt sáo bản nhạc nào ngoài Figaro; không vở opera nào được khán giả đến xem đông như Figaro…’ (Ibid, Pg 520). Tuy nhiên, dù ngưỡng mộ Prague đến nhường nào – và dĩ nhiên điều này là thời gian trước khi diễn vở Don Giovanni – rõ ràng là ông nhớ Vienna – ngôi nhà âm nhạc của ông: “dẫu cho Prague thực sự là một nơi xinh đẹp và dễ mến – Tôi đang mong mỏi được về lại Vienna… Tôi có lẽ sẽ tổ chức một buổi hòa nhạc thứ hai, và việc này khiến tôi phải lưu lại đây lâu hơn”.
Bức thư thứ hai – được viết trong khoảng ngày 15 đến 25 tháng Mười - gửi von Jacquin từ Prague tràn ngập những câu chuyện về việc chuẩn bị trình diễn Don Giovanni vào ngày 29/10/1787: “Anh chắc nghĩ rằng vở opera của tôi đã được ra mắt công chúng từ lâu nhưng có lẽ đây chỉ là sự hiểu nhầm. Trước hết, diễn viên của nhà hát ở đây không được chuyên nghiệp như đồng nghiệp tại các nhà hát ở Vienna để có thể tìm hiểu một vở opera trong khoảng thời gian ngắn như thế. Thứ hai, khi đến nơi tôi mới thấy là còn thiếu sót trong dàn dựng đến mức vở opera không thể diễn ra vào ngày 14 hôm qua…” Ông còn cho biết buổi ra mắt vở opera được ấn định vào ngày 24 tháng Mười nhưng bị hoãn lần nữa vì một ca sĩ ngã bệnh. Sau đó, ông lại viết tiếp bức thư lần nữa vào ngày 25 tháng Mười để nói rằng cuối cùng thì ngày ấn định là 29 tháng Mười và sau buổi ra mắt, ông sẽ kể về việc nó đã diễn ra như thế nào.
Bức thư thứ ba gửi von Jacquin ghi ngày 4-9 tháng Mười một năm 1787, đáng chú ý là được viết ngay sau buổi ra mắt Don Giovanni; đúng như lời ông hứa, nó bao gồm phần miêu tả về sự đón nhận vở opera được gói gọn ngay trong câu mở đầu thư. Có lẽ đây cũng là một điều quan trọng vì bấy giờ cha ông đã không còn sống để Mozart chia sẻ tỉ mỉ về thành công vang dội của mình; thay vào đó, Mozart nói về nó – một cách vắn tắt nhưng có lẽ trong lúc đang mệt lử – với von Jacquin, chứng tỏ sự quan tâm của Mozart dành cho người bạn của mình: “Tạm biệt, người tuyệt nhất trần gian – Tôi trân quí tình bạn của chúng ta biết bao – mong sao nó mãi trường tồn!” (Ibid, Pg 522).
Vì bức thư được viết lập tức sau buổi ra mắt, chúng ta có thể hình dung rằng nó được viết tại ngôi nhà ở Uhelny Trh, nơi ngày nay vẫn có một bảng hiệu ghi lại việc ông ở tại ngôi nhà này vào năm 1787; việc nó nằm gần nhà hát Estates, nơi vở opera được biểu diễn cũng ủng hộ giả thuyết này. Phần còn lại của bức thư đề cập rất ít đến Prague lẫn buổi ra mắt, ngay cả ở đây, dù có được thành công lẫy lừng của vở opera thì sức hút của Vienna vẫn mạnh mẽ: “Mọi người ở đây đang làm mọi cách có thể để thuyết phục tôi ở lại thêm vài tháng và viết thêm một vở opera. Dẫu lời mời mọc của họ có hấp dẫn đến đâu, tôi cũng không thể nhận lời…” (Ibid, Pg 532). Mozart cũng nhắc đến một bài hát có thể là bài Das Traumbild (Hình ảnh trong mộng) mà ông viết trong chuyến đi đến Prague và ghi ngày 6/11/1787, vì thế có lẽ là thời điểm Mozart chấp bút viết thư (Ibid, Pg 532).
Dấu ấn nghề nghiệp
Các địa điểm được biết đến của những lá thư còn sót lại của Mozart từ Prague, chẳng hạn như những lá gửi cho von Jacquin và Constanze vợ ông, được giữ tại Thư viện quốc gia Áo, cho phép chúng ta nghiên cứu chữ viết của ông chi tiết hơn. Lá thư gửi von Jacquin (ngày 4-9/11/1787) được viết rất đẹp, với phong cách gothic Đức đặc trưng của Mozart, thường xuyên có những dấu gạch ngang, thi thoảng có những dấu chấm than và những dấu gạch dưới; đọc nó như thể một tổng phổ opera kĩ càng nhưng đầy hồ hởi, phản ánh nội dung đầy ắp. Thú vị hơn, dường như Mozart đã gạch dưới từ “Prague, ngày 4 tháng 11’ nhưng gạch đôi dưới năm ‘1787’, ông cũng phần nào làm tương tự với lá thư cho Constanze từ Prague, việc gạch dưới lần này, chỉ có từ ‘Prague’ và sau đó gạch dưới con số chỉ năm hai lần, như thể nhấn mạnh với vợ các địa điểm chính xác nơi mình đang ở trên đường về nhà. Đây là điều khiến bức thư sau đặc biệt thú vị; nó là một bức thư nhanh nhỏ gọn riêng tư, cá nhân, vội vã, được viết bằng cùng nét chữ viết tay gần như như gà bới, ‘In Eile…’ [một cách vội vã]. Chữ kí của Mozart được gạch dưới bằng kiểu răng cưa ba lần, với vẻ bay bướm đậm chất sân khấu.
Câu sau có thể được coi như phản ánh phần lớn lối sống của Mozart.
Mặc dù chẳng những lá thư cho chúng ta thấy những lời lẽ từ bản thân Mozart song dường như ông không nói hết lời mình, năng lượng của ông có lẽ chảy về một nơi nào khác. Tuy nhiên những bức thư từ Prague vẫn miêu tả những gì ông thấy là quan trọng để đề cập và là những minh họa cho các hoạt động của ông, trong tư cách con người và nhạc sĩ. Và như một phần trong nhân dạng của ông, chúng cũng phản ánh chính xác sự thống trị của âm nhạc trong đời ông, như một nhân vật chính trong một vở opera, sau đó là trong những lá thư của ông.
Phạm Khắc Hoàng Vũ dịch
NA9 hiệu đính
Nguồn: https://www.praguepost.com/culture/mozarts-letters-and-prague
Trong các bức thư còn sót lại từ Prague của Mozart – có năm bức được xếp trong cơ sở dữ liệu của Mozarteum – không bức nào được lưu giữ ở Prague, tại Cục Lưu trữ thành phố hay bất kì đâu khác, có lẽ lí do rõ nhất là cả hai người nhận thư đều ở Áo. Trong ba bức gửi Gottfried von Jacquin ở Vienna thì một đang thuộc sở hữu cá nhân, bức thứ hai đang ở Cục lưu trữ Khu vực Quốc gia tại Trebon, miền nam Bohemia. Một bức thứ ba được giữ ở Thư viện quốc gia Áo, tại Vienna. Tương tự thế, hai lá thư còn lại gửi cho Constanze từ Prague năm 1789 cũng có những địa chỉ đến khác nhau; bức đầu từ ngày 10/4/1789, được bán tại nhà đấu giá Christie ở London như một phần của đợt ‘Những quyển sách & bản thảo’ (Sale 4791) vào ngày 24/6/1992, với tên ‘Lô 2: Mozart, Wolfgang Amadeus, Một bức thư có chữ kí gửi vợ ông’; không rõ nó nằm trong bộ sưu tập cá nhân nào, nhưng nó đã vượt qua mức định giá bán đầu khoảng 45.000 đến 55.000 bảng, sau được bán với giá 60.500 bảng. (Christie’s, retrieved 07/06/18).
Bí mật của những cây đàn triệu đô
tháng 1 31, 2020
No comments
Với sự hỗ trợ của công nghệ, các nhà nghiên cứu yêu nhạc cổ điển đã dần bóc tách bí mật ẩn giấu trong những cây đàn mang nhãn hiệu Stradivarius và Guarneri trị giá hàng triệu đô-la.
Nghệ nhân Antonio Stradivari trong xưởng chế tác đàn, bút mực, Valerian Gribayedoff (1858-1908).
Được các nghệ nhân thuộc dòng họ Stradivari, Guarneri chế tác vào thế kỷ 17, 18 tại thị trấn Cremona (Ý), các nhạc cụ bộ dây này nổi tiếng khắp thế giới bởi chất lượng âm thanh hoàn hảo. Trong suốt cuộc đời mình, Antonio Stradivari1 đã làm trên 1.000 cây đàn violin, viola và cello, và người ta tin rằng khoảng 650 trong số đó tồn tại đến ngày nay. Số lượng đàn mang nhãn hiệu del Gesù [của Chúa Jesus] do Giuseppe Guarneri2 chế tác còn lại ít hơn, khoảng hơn 200 cây. Chúng đều có giá triệu đô trở lên3 và gắn với nhiều tên tuổi huyền thoại như Yehudi Menuhin, Nathan Milstein, David Oistrakh, Anna Sophie Mutter (violin), Yuri Bashmet (viola), Mstislav Rostropovich, Jacquelinne du Pre (cello)4...
Véc-ni làm nên huyền thoại?
Nhiều năm qua, không ít nhà khoa học đã thực hiện nghiên cứu trên các cây đàn Stradivarius và Guarneri không chỉ để thỏa mãn câu hỏi tại sao các cây đàn này lại đặc biệt mà còn hướng tới mục tiêu gìn giữ chúng khỏi sự tàn phá của thời gian.
Năm 2006, công bố trên Nature của Giáo sư hóa sinh Joseph Nagyvary (ĐH Texas A&M), một nghệ sỹ violin nghiệp dư, đã chỉ ra chính lớp véc-ni bảo vệ cây đàn khỏi các loại mối mọt phổ biến ở Bắc Ý đóng vai trò như “bộ lọc” tạp âm, giúp tiếng đàn trở nên đẹp không tì vết.
Trong khi đó, theo một số nhà nghiên cứu Mỹ và Hà Lan, bí mật của những cây đàn triệu đô nằm ở chất liệu gỗ. Họ dẫn chứng, những cây đàn Stradivarius được chế tác trong thời kỳ “tiểu băng hà” ở châu Âu, khi nhiệt độ thấp ngay cả vào mùa hè khiến cây vân sam, loại cây cho gỗ làm đàn, lớn chậm nhưng đều, và chính thớ gỗ đều lý giải chất lượng âm thanh đặc biệt của đàn. Tuy nhiên GS Nagyvary không thấy cách giải thích này thuyết phục: “Nhiều người làm đàn ở Đức, Pháp và các nước châu Âu khác cũng dùng loại gỗ đó nhưng chỉ có mỗi nhạc cụ ở Cremona là hoàn hảo. Tôi tin rằng yếu tố làm nên sự khác biệt chính là lớp véc-ni”.
Không chỉ mình GS Nagyvary tiến hành nghiên cứu theo hướng này. Trong công bố trên tạp chí Applied Physics A vào tháng 8/2016, Marjan Sedighi Gilani và đồng nghiệp ở Phòng thí nghiệm KH&CN vật liệu Liên bang Thụy Sỹ (EMPA) cho biết, đã sử dụng bốn loại véc-ni khác nhau, hai do họ pha chế và hai của các nghệ nhân làm đàn Đức, trên các mẫu gỗ vân sam hảo hạng của Na Uy để tìm hiểu tác dụng làm cứng gỗ của véc-ni thay đổi các đặc tính dao động cơ học có tần số cao (vibro-mechanical properties) của gỗ như thế nào. Kết quả, bốn loại véc-ni đều làm tăng khả năng giảm rung trên khắp bề mặt gỗ. Việc giảm rung vừa phải, nhìn chung, có ích cho tiếng đàn: khi các nốt cao bớt rung, âm thanh vang lên ấm và êm ái hơn. Với gỗ chưa được phủ véc-ni, âm thanh lan truyền nhanh hơn theo chiều dọc thớ gỗ và chậm hơn theo chiều vuông góc với thớ gỗ. Âm thanh cũng giảm rung rõ hơn ở chiều vuông góc với thớ gỗ so với chiều dọc thớ gỗ. Với cả bốn loại véc-ni, đặc biệt là véc-ni của thợ làm đàn Đức, sự khác biệt này đã được giảm bớt, dẫn đến nhiều bức xạ âm thanh đẳng hướng hơn.
Những bí ẩn về chất liệu vẫn được tiếp tục công bố. Trên tạp chí PNAStháng 12/2016, Giáo sư hóa học Hwan-Ching Tai (ĐH Quốc gia Đài Loan), cho rằng quá trình xử lý gỗ làm đàn bằng hóa chất cũng có vai trò. Bằng năm kỹ thuật phân tích đánh giá vỏ bào gỗ từ hai cây đàn violin, hai cây đàn cello Stradivarius, và một cây đàn violin Guarneri, Tai và đồng nghiệp đã tìm thấy bằng chứng về việc xử lý gỗ bằng hóa chất, bao gồm nhôm, can xi, đồng và một vài nguyên tố khác – một khâu đã bị thất truyền ở nhiều thế hệ thợ làm đàn sau này.
Giáo sư địa lý Henri Grissino-Mayer (ĐH Tennessee, Mỹ), người từng đề xuất thuyết "tiểu băng hà", nhận xét, “Các thợ làm đàn hiện đại giờ không còn làm khâu này nữa. Đây là bài báo đầu tiên thuyết phục được tôi rằng các khoáng chất thấm vào gỗ có thể là nguyên nhân khiến các nhạc cụ có âm thanh đỉnh cao”.
Nhưng GS Tai vẫn chưa rõ liệu hiệu quả âm thanh này là do ngẫu nhiên hay do các nghệ nhân Cremona đã dự đoán được tác động của các chất hóa học. Ông cho rằng, các chất hóa học này được những người thợ gỗ áp dụng trước tiên khi ngâm gỗ vào các khoáng chất để loại bỏ nấm mốc, mối mọt trước khi bán cho thợ làm đàn. Theo thời gian, các khoáng chất có thể đã làm gỗ cứng lại thông qua các liên kết hóa học.
Các nhà nghiên cứu còn phát hiện, hemicellulose5, chiếm 1/3 thành phần gỗ làm đàn, đã bị phân hủy ở các cây đàn Stradivarius và Guarneri. Do hemicellulose bản chất hút ẩm nên các cây đàn này có lượng nước ít hơn 25% so với các cây đàn hiện đại. "Đây là yếu tố quan trọng cơ bản bởi độ ẩm [của đàn] càng thấp, âm thanh càng sáng", GS Nagyvary nhận xét.
Yếu tố ngẫu nhiên
Trong một lần trả lời tạp chí Time, nghệ sỹ violin người Mỹ James Ehnes cho rằng, sau khi chơi thử nhiều cây đàn Stradivarius, ông cảm thấy có hàng ngàn nguyên nhân dẫn đến sự vượt trội của chúng, không chỉ do nguyên nhân duy nhất là véc-ni. "Không bao giờ chỉ có một bí mật trong những cây đàn đó," ông nói.
Năm 2012, tiến sỹ vật lý Franco Zanini, cũng là một nghệ sỹ violin nghiệp dư, làm việc tại phòng thí nghiệm Elettra synchrotron ở Trieste, Italy, đã phát triển kỹ thuật cho phép so sánh cây đàn hiếm hoi do Guadagnini6 chế tác vào năm 1753 trị giá 1 triệu bảng với những cây đàn ít tiền hơn và phát hiện ra những “khiếm khuyết” nho nhỏ đã giúp tạo ra âm thanh đặc biệt cho cây violin đắt giá.
“Chúng tôi nhận thấy có nhiều bất đối xứng trên các nhạc cụ. Về nguyên tắc thì chẳng có lý do nào để chúng xuất hiện ở đó, nhưng có thể chính những ‘khiếm khuyết’ này đã giúp loại bỏ tạp âm có ở những nhạc cụ đối xứng hoàn hảo”.
TS. Zanini tin rằng sự thiếu cân đối trong kết cấu của đàn cùng với độ dày của gỗ giúp tạo ra hiệu ứng được gọi là ức chế họa âm – những họa âm thô gắt không mong muốn có thể dẫn đến những nốt nhạc gây khó chịu sẽ bị loại bỏ bởi sự cộng hưởng của gỗ. Ông cho rằng, làm ra những cây đàn bất đối xứng “hoàn hảo” như vậy vượt quá khả năng của một máy tính, vì thế có lẽ người thợ làm đàn đã làm được điều đó một cách tình cờ, hoặc là nhờ cách làm thử và sai.
Một nghiên cứu khác kéo dài bảy năm của GS. Nicholas Makris (MIT), một nghệ sỹ đàn lute nghiệp dư, trên hàng trăm cây đàn violin Stradivarius, Amati và Guarneri, đã phát hiện âm thanh đặc trưng của nhạc cụ có khả năng xuất phát từ các sai lệch nhỏ phát sinh sau mỗi lần thợ làm đàn tìm cách sao chép thiết kế gốc của mình. Ông khám phá ra độ dài của khe hình chữ S và độ dày của mặt sau đàn đã tạo ra những khác biệt lớn về âm thanh, trong đó khe hình chữ S thuôn dài đã chứng tỏ hiệu quả hơn so với khe hình chữ S cong ở những nhạc cụ đàn dây thời Trung cổ như fiddle, lyre, rebec7.
Các cây đàn của các nghệ nhân Cremona thế kỷ 17 và 18 đã tiến hóa một cách chậm rãi: khe hình chữ S dài hơn và mặt sau đàn dày hơn. Tuy nhiên, các mô hình trên máy tính của MIT – dựa trên các bản vẽ kỹ thuật từ thời chúng được làm ra cũng như các kỹ thuật hiện đại như X-quang và chụp cắt lớp CAT, cho thấy các phát triển này đều không chủ ý, ít nhất là trong trường hợp cây đàn Guadagnini.
GS. Nicholas Makris cho biết: “Chúng tôi đã phát hiện ra rằng nếu cứ cố gắng sao chép một khe hình chữ S giống hệt như ở cái đàn trước bạn đã làm thì kiểu gì bạn cũng bị những sai lệch nhỏ. Bạn cắt một tấm gỗ mỏng bằng dao và bạn không thể làm nó hoàn hảo được, chúng tôi đã thống kê được khoảng 2% sai lệch”. Nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa rõ: liệu những thợ làm đàn có nhận thức được việc họ có thể làm biến đổi âm thanh và âm lượng của nhạc cụ từ những lỗi nho nhỏ đó hay không.
Joseph Curtin, một nghệ nhân làm đàn violin Mỹ cùng với tiến sĩ âm học Claudia Fritz (ĐH Pierre & Marie Curie, Pháp) thậm chí đã thực hiện nghiên cứu so sánh âm thanh của đàn Stradivarius với đàn mới. Họ mời 10 nghệ sỹ độc tấu nổi tiếng tham gia một cuộc kiểm tra ẩn dữ liệu (blind test) trên sáu đàn Stradivarius và sáu đàn mới, thoạt tiên ở phòng tập tại nhà để xếp hạng nhạc cụ và sau đó là ở một khán phòng 300 chỗ ngồi để chọn ra cây đàn ưa thích nhất. Trong ánh sáng mờ ảo, nghệ sỹ còn phải mang một cặp kính thợ hàn cách điệu để không thể nhận ra cây đàn họ chơi. Những cây đàn mới cũng được chế tác theo kiểu “giả cổ”. Kết quả thật đáng ngạc nhiên: hai cây đàn được yêu thích hơn cả là đàn mới còn chính cây đàn Stradivarius chỉ đứng ở vị trí thứ ba. Người nghe cũng không thể phân biệt một cách chắc chắn đàn mới với đàn cũ. Tháng 5/2017, nhóm này công bố nghiên cứu “Người nghe đánh giá các cây đàn Ýcũ, mới” trên tạp chí PNAS.
Vậy thực sự điều gì làm nên bí mật của các cây đàn Cremona? Người ta có thể tham khảo một trải nghiệm của nghệ sỹ cello Lynn Harrell, người mua cây cello Stradivarius 1673 mà nữ nghệ sỹ tài năng Jacqueline du Pre từng chơi trước khi qua đời.
Ông kể lại: “Nhiều năm sau khi mua cây đàn Strad, tôi đã có thể ‘nghe thấy’ giọng nói [nghệ thuật] của Jackie mỗi khi tôi chơi đàn, đặc biệt là khi tôi chơi các tác phẩm của Elgar. Có lẽ sau tất cả những giờ luyện tập để đạt tới một bản sắc và phong cách riêng thì từng phút từng phút đó đều thấm vào và làm biến đổi thớ gỗ để dễ dàng truyền đi phong cách đặc biệt của bà. Tôi không rõ nữa. Nhưng tôi chắc chắn điều này: sự hiện diện [về tinh thần] âm nhạc của bà vẫn còn lưu lại trong chính cây đàn”.
Thanh Nhàn tổng hợp
----------
1Antonio Stradivari (1644? - 1737) là người nổi tiếng nhất của dòng họ Stradivari. Các nhạc cụ do ông chế tác thường được gọi theo tiếng Latin là Stradivarius – thi thoảng còn được gọi tắt là Strad.
2Giuseppe Guarneri (1698-1744) là người nổi tiếng nhất của dòng họ Guarneri. Mỗi khi chế tác xong một cây đàn, ông thường khắc tên mình và ba chữ cái IHS – một cách viết biểu tượng cho tên Chúa Jesus Christ, đó là nguyên nhân giải thích vì sao ông và các cây đàn của ông lại được mang danh Guarneri del Gesù.
3Năm 2011, Quỹ Âm nhạc Nippon phải trả 16 triệu đô-la cho nhà đấu giá Tarisio để mua cây đàn violin Lady Blunt Stradivarius, phá vỡ kỷ lục 10 triệu đô-la do cây đàn Kochanski Guarneri del Gesù lập năm 2009.
4Các nghệ nhân chế tác những cây đàn Stradivarius và Guarneri del Gesù đều không tự đặt tên cho đàn, những tên gọi đó đều do người đời sau đặt dựa theo tên của những người chủ sở hữu, những nghệ sỹ nổi tiếng từng chơi đàn. Ví dụ, cây Lady Blunt Stradivarius được gọi theo tên của Anne Isabella Noel Blunt hay còn gọi là Lady Anne Blunt, cháu gái của nhà thơ Byron, mặc dù người đầu tiên sở hữu cây đàn là nghệ nhân làm đàn Tây Ban Nha, Jean Baptiste Vuillaume; cây Kochanski Guarneri del Gesù được gọi theo tên nghệ sỹ violin xuất sắc Ba Lan Paul Kochanski (1887-1934), bạn thân của nhà soạn nhạc Nga Sergei Prokofiev…
5Hemicellulose là một trong các chất tạo thành vách tế bào thực vật.
6Giovanni Battista Guadagnini (1711 – 1786) sống tại Piacenza, được coi là nghệ nhân làm đàn xuất sắc thứ ba trong lịch sử Ý, sau Antonio Stradivari và Giuseppe Guarneri.
7 Đây đều là những nhạc cụ bộ dây phổ biến thời Trung cổ, trong đó fiddle và rebec được kéo bằng vĩ và là tiền thân của cây đàn violin sau này, còn lyre gẩy bằng tay và là tiền thân của cây đàn harp.
Véc-ni làm nên huyền thoại?
Nhiều năm qua, không ít nhà khoa học đã thực hiện nghiên cứu trên các cây đàn Stradivarius và Guarneri không chỉ để thỏa mãn câu hỏi tại sao các cây đàn này lại đặc biệt mà còn hướng tới mục tiêu gìn giữ chúng khỏi sự tàn phá của thời gian.
Năm 2006, công bố trên Nature của Giáo sư hóa sinh Joseph Nagyvary (ĐH Texas A&M), một nghệ sỹ violin nghiệp dư, đã chỉ ra chính lớp véc-ni bảo vệ cây đàn khỏi các loại mối mọt phổ biến ở Bắc Ý đóng vai trò như “bộ lọc” tạp âm, giúp tiếng đàn trở nên đẹp không tì vết.
Trong khi đó, theo một số nhà nghiên cứu Mỹ và Hà Lan, bí mật của những cây đàn triệu đô nằm ở chất liệu gỗ. Họ dẫn chứng, những cây đàn Stradivarius được chế tác trong thời kỳ “tiểu băng hà” ở châu Âu, khi nhiệt độ thấp ngay cả vào mùa hè khiến cây vân sam, loại cây cho gỗ làm đàn, lớn chậm nhưng đều, và chính thớ gỗ đều lý giải chất lượng âm thanh đặc biệt của đàn. Tuy nhiên GS Nagyvary không thấy cách giải thích này thuyết phục: “Nhiều người làm đàn ở Đức, Pháp và các nước châu Âu khác cũng dùng loại gỗ đó nhưng chỉ có mỗi nhạc cụ ở Cremona là hoàn hảo. Tôi tin rằng yếu tố làm nên sự khác biệt chính là lớp véc-ni”.
Không chỉ mình GS Nagyvary tiến hành nghiên cứu theo hướng này. Trong công bố trên tạp chí Applied Physics A vào tháng 8/2016, Marjan Sedighi Gilani và đồng nghiệp ở Phòng thí nghiệm KH&CN vật liệu Liên bang Thụy Sỹ (EMPA) cho biết, đã sử dụng bốn loại véc-ni khác nhau, hai do họ pha chế và hai của các nghệ nhân làm đàn Đức, trên các mẫu gỗ vân sam hảo hạng của Na Uy để tìm hiểu tác dụng làm cứng gỗ của véc-ni thay đổi các đặc tính dao động cơ học có tần số cao (vibro-mechanical properties) của gỗ như thế nào. Kết quả, bốn loại véc-ni đều làm tăng khả năng giảm rung trên khắp bề mặt gỗ. Việc giảm rung vừa phải, nhìn chung, có ích cho tiếng đàn: khi các nốt cao bớt rung, âm thanh vang lên ấm và êm ái hơn. Với gỗ chưa được phủ véc-ni, âm thanh lan truyền nhanh hơn theo chiều dọc thớ gỗ và chậm hơn theo chiều vuông góc với thớ gỗ. Âm thanh cũng giảm rung rõ hơn ở chiều vuông góc với thớ gỗ so với chiều dọc thớ gỗ. Với cả bốn loại véc-ni, đặc biệt là véc-ni của thợ làm đàn Đức, sự khác biệt này đã được giảm bớt, dẫn đến nhiều bức xạ âm thanh đẳng hướng hơn.
Những bí ẩn về chất liệu vẫn được tiếp tục công bố. Trên tạp chí PNAStháng 12/2016, Giáo sư hóa học Hwan-Ching Tai (ĐH Quốc gia Đài Loan), cho rằng quá trình xử lý gỗ làm đàn bằng hóa chất cũng có vai trò. Bằng năm kỹ thuật phân tích đánh giá vỏ bào gỗ từ hai cây đàn violin, hai cây đàn cello Stradivarius, và một cây đàn violin Guarneri, Tai và đồng nghiệp đã tìm thấy bằng chứng về việc xử lý gỗ bằng hóa chất, bao gồm nhôm, can xi, đồng và một vài nguyên tố khác – một khâu đã bị thất truyền ở nhiều thế hệ thợ làm đàn sau này.
Giáo sư địa lý Henri Grissino-Mayer (ĐH Tennessee, Mỹ), người từng đề xuất thuyết "tiểu băng hà", nhận xét, “Các thợ làm đàn hiện đại giờ không còn làm khâu này nữa. Đây là bài báo đầu tiên thuyết phục được tôi rằng các khoáng chất thấm vào gỗ có thể là nguyên nhân khiến các nhạc cụ có âm thanh đỉnh cao”.
Nhưng GS Tai vẫn chưa rõ liệu hiệu quả âm thanh này là do ngẫu nhiên hay do các nghệ nhân Cremona đã dự đoán được tác động của các chất hóa học. Ông cho rằng, các chất hóa học này được những người thợ gỗ áp dụng trước tiên khi ngâm gỗ vào các khoáng chất để loại bỏ nấm mốc, mối mọt trước khi bán cho thợ làm đàn. Theo thời gian, các khoáng chất có thể đã làm gỗ cứng lại thông qua các liên kết hóa học.
Các nhà nghiên cứu còn phát hiện, hemicellulose5, chiếm 1/3 thành phần gỗ làm đàn, đã bị phân hủy ở các cây đàn Stradivarius và Guarneri. Do hemicellulose bản chất hút ẩm nên các cây đàn này có lượng nước ít hơn 25% so với các cây đàn hiện đại. "Đây là yếu tố quan trọng cơ bản bởi độ ẩm [của đàn] càng thấp, âm thanh càng sáng", GS Nagyvary nhận xét.
Yếu tố ngẫu nhiên
Trong một lần trả lời tạp chí Time, nghệ sỹ violin người Mỹ James Ehnes cho rằng, sau khi chơi thử nhiều cây đàn Stradivarius, ông cảm thấy có hàng ngàn nguyên nhân dẫn đến sự vượt trội của chúng, không chỉ do nguyên nhân duy nhất là véc-ni. "Không bao giờ chỉ có một bí mật trong những cây đàn đó," ông nói.
Năm 2012, tiến sỹ vật lý Franco Zanini, cũng là một nghệ sỹ violin nghiệp dư, làm việc tại phòng thí nghiệm Elettra synchrotron ở Trieste, Italy, đã phát triển kỹ thuật cho phép so sánh cây đàn hiếm hoi do Guadagnini6 chế tác vào năm 1753 trị giá 1 triệu bảng với những cây đàn ít tiền hơn và phát hiện ra những “khiếm khuyết” nho nhỏ đã giúp tạo ra âm thanh đặc biệt cho cây violin đắt giá.
“Chúng tôi nhận thấy có nhiều bất đối xứng trên các nhạc cụ. Về nguyên tắc thì chẳng có lý do nào để chúng xuất hiện ở đó, nhưng có thể chính những ‘khiếm khuyết’ này đã giúp loại bỏ tạp âm có ở những nhạc cụ đối xứng hoàn hảo”.
TS. Zanini tin rằng sự thiếu cân đối trong kết cấu của đàn cùng với độ dày của gỗ giúp tạo ra hiệu ứng được gọi là ức chế họa âm – những họa âm thô gắt không mong muốn có thể dẫn đến những nốt nhạc gây khó chịu sẽ bị loại bỏ bởi sự cộng hưởng của gỗ. Ông cho rằng, làm ra những cây đàn bất đối xứng “hoàn hảo” như vậy vượt quá khả năng của một máy tính, vì thế có lẽ người thợ làm đàn đã làm được điều đó một cách tình cờ, hoặc là nhờ cách làm thử và sai.
Một nghiên cứu khác kéo dài bảy năm của GS. Nicholas Makris (MIT), một nghệ sỹ đàn lute nghiệp dư, trên hàng trăm cây đàn violin Stradivarius, Amati và Guarneri, đã phát hiện âm thanh đặc trưng của nhạc cụ có khả năng xuất phát từ các sai lệch nhỏ phát sinh sau mỗi lần thợ làm đàn tìm cách sao chép thiết kế gốc của mình. Ông khám phá ra độ dài của khe hình chữ S và độ dày của mặt sau đàn đã tạo ra những khác biệt lớn về âm thanh, trong đó khe hình chữ S thuôn dài đã chứng tỏ hiệu quả hơn so với khe hình chữ S cong ở những nhạc cụ đàn dây thời Trung cổ như fiddle, lyre, rebec7.
Các cây đàn của các nghệ nhân Cremona thế kỷ 17 và 18 đã tiến hóa một cách chậm rãi: khe hình chữ S dài hơn và mặt sau đàn dày hơn. Tuy nhiên, các mô hình trên máy tính của MIT – dựa trên các bản vẽ kỹ thuật từ thời chúng được làm ra cũng như các kỹ thuật hiện đại như X-quang và chụp cắt lớp CAT, cho thấy các phát triển này đều không chủ ý, ít nhất là trong trường hợp cây đàn Guadagnini.
GS. Nicholas Makris cho biết: “Chúng tôi đã phát hiện ra rằng nếu cứ cố gắng sao chép một khe hình chữ S giống hệt như ở cái đàn trước bạn đã làm thì kiểu gì bạn cũng bị những sai lệch nhỏ. Bạn cắt một tấm gỗ mỏng bằng dao và bạn không thể làm nó hoàn hảo được, chúng tôi đã thống kê được khoảng 2% sai lệch”. Nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa rõ: liệu những thợ làm đàn có nhận thức được việc họ có thể làm biến đổi âm thanh và âm lượng của nhạc cụ từ những lỗi nho nhỏ đó hay không.
Joseph Curtin, một nghệ nhân làm đàn violin Mỹ cùng với tiến sĩ âm học Claudia Fritz (ĐH Pierre & Marie Curie, Pháp) thậm chí đã thực hiện nghiên cứu so sánh âm thanh của đàn Stradivarius với đàn mới. Họ mời 10 nghệ sỹ độc tấu nổi tiếng tham gia một cuộc kiểm tra ẩn dữ liệu (blind test) trên sáu đàn Stradivarius và sáu đàn mới, thoạt tiên ở phòng tập tại nhà để xếp hạng nhạc cụ và sau đó là ở một khán phòng 300 chỗ ngồi để chọn ra cây đàn ưa thích nhất. Trong ánh sáng mờ ảo, nghệ sỹ còn phải mang một cặp kính thợ hàn cách điệu để không thể nhận ra cây đàn họ chơi. Những cây đàn mới cũng được chế tác theo kiểu “giả cổ”. Kết quả thật đáng ngạc nhiên: hai cây đàn được yêu thích hơn cả là đàn mới còn chính cây đàn Stradivarius chỉ đứng ở vị trí thứ ba. Người nghe cũng không thể phân biệt một cách chắc chắn đàn mới với đàn cũ. Tháng 5/2017, nhóm này công bố nghiên cứu “Người nghe đánh giá các cây đàn Ýcũ, mới” trên tạp chí PNAS.
Vậy thực sự điều gì làm nên bí mật của các cây đàn Cremona? Người ta có thể tham khảo một trải nghiệm của nghệ sỹ cello Lynn Harrell, người mua cây cello Stradivarius 1673 mà nữ nghệ sỹ tài năng Jacqueline du Pre từng chơi trước khi qua đời.
Ông kể lại: “Nhiều năm sau khi mua cây đàn Strad, tôi đã có thể ‘nghe thấy’ giọng nói [nghệ thuật] của Jackie mỗi khi tôi chơi đàn, đặc biệt là khi tôi chơi các tác phẩm của Elgar. Có lẽ sau tất cả những giờ luyện tập để đạt tới một bản sắc và phong cách riêng thì từng phút từng phút đó đều thấm vào và làm biến đổi thớ gỗ để dễ dàng truyền đi phong cách đặc biệt của bà. Tôi không rõ nữa. Nhưng tôi chắc chắn điều này: sự hiện diện [về tinh thần] âm nhạc của bà vẫn còn lưu lại trong chính cây đàn”.
Thanh Nhàn tổng hợp
----------
1Antonio Stradivari (1644? - 1737) là người nổi tiếng nhất của dòng họ Stradivari. Các nhạc cụ do ông chế tác thường được gọi theo tiếng Latin là Stradivarius – thi thoảng còn được gọi tắt là Strad.
2Giuseppe Guarneri (1698-1744) là người nổi tiếng nhất của dòng họ Guarneri. Mỗi khi chế tác xong một cây đàn, ông thường khắc tên mình và ba chữ cái IHS – một cách viết biểu tượng cho tên Chúa Jesus Christ, đó là nguyên nhân giải thích vì sao ông và các cây đàn của ông lại được mang danh Guarneri del Gesù.
3Năm 2011, Quỹ Âm nhạc Nippon phải trả 16 triệu đô-la cho nhà đấu giá Tarisio để mua cây đàn violin Lady Blunt Stradivarius, phá vỡ kỷ lục 10 triệu đô-la do cây đàn Kochanski Guarneri del Gesù lập năm 2009.
4Các nghệ nhân chế tác những cây đàn Stradivarius và Guarneri del Gesù đều không tự đặt tên cho đàn, những tên gọi đó đều do người đời sau đặt dựa theo tên của những người chủ sở hữu, những nghệ sỹ nổi tiếng từng chơi đàn. Ví dụ, cây Lady Blunt Stradivarius được gọi theo tên của Anne Isabella Noel Blunt hay còn gọi là Lady Anne Blunt, cháu gái của nhà thơ Byron, mặc dù người đầu tiên sở hữu cây đàn là nghệ nhân làm đàn Tây Ban Nha, Jean Baptiste Vuillaume; cây Kochanski Guarneri del Gesù được gọi theo tên nghệ sỹ violin xuất sắc Ba Lan Paul Kochanski (1887-1934), bạn thân của nhà soạn nhạc Nga Sergei Prokofiev…
5Hemicellulose là một trong các chất tạo thành vách tế bào thực vật.
6Giovanni Battista Guadagnini (1711 – 1786) sống tại Piacenza, được coi là nghệ nhân làm đàn xuất sắc thứ ba trong lịch sử Ý, sau Antonio Stradivari và Giuseppe Guarneri.
7 Đây đều là những nhạc cụ bộ dây phổ biến thời Trung cổ, trong đó fiddle và rebec được kéo bằng vĩ và là tiền thân của cây đàn violin sau này, còn lyre gẩy bằng tay và là tiền thân của cây đàn harp.
Vì sao Beethoven bị điếc?
tháng 1 31, 2020
No comments
03/01/2020 18:08 - Howard Markel
Khi bản giao hưởng số 9 huyền thoại của Ludwig van Beethoven lần đầu trình diễn vào năm 1824, nhà soạn nhạc đã phải xoay người lại để thấy màn hoan hô của khán giả - ông không còn khả năng nghe tiếng vỗ tay của họ nữa.
Beethoven đã cảm nhận được những khó khăn về thính giác của minh vào nhiều thập kỷ trước đó, có thể là năm 1798, khi ông ở tuổi 28. Đến quãng năm 44 hoặc 45 tuổi, ông đã hoàn toàn bị điếc và không còn khả năng trò chuyện. Vì thế, ông đành phải viết ra giấy những gì muốn trao đổi với đồng nghiệp, khách khứa và bạn bè. Ông qua đời vào năm 1827 ở tuổi 56. Nhưng cho đến khi qua đời thì ông vẫn còn đóng một vai trò quan trọng trong văn hóa phương Tây, thậm chí là hơn thế.
Vậy Beethoven bị điếc là do nguyên nhân nào? Đây thực sự là một câu hỏi khó bởi vì có rất nhiều chứng bệnh trong hai trăm năm qua liên quan đến nó, từ bệnh giang mai giai đoạn 3, nhiễm độc kim loại nặng, lupus, sốt phát ban đến bệnh sarcoid và bệnh xương Paget.
Beethoven được rửa tội vào ngày 17/12/1770 (không ai chắc chắn về ngày sinh của ông, thường người ta nghĩ là ngày 16/12).
Giống như nhiều người sống trong thời kỳ cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, ông có hàng chứng bệnh tật ốm đau. Trong trường hợp của Beethoven, danh sách gồm có chứng đau bụng kinh niên và tiêu chảy, có thể là do một loại viêm ruột, trầm cảm, lạm dụng rượu, các vấn đề về hô hấp, đau khớp, viêm mắt và xơ gan. Việc uống rượu như hũ chìm có thể là vấn đề cuối cùng khiến ông bị suy sụp sức khỏe và dẫn đến cái chết. Sau khi bị liệt giường trong nhiều tháng, ông qua đời vào năm 1827, như kết cục của nhiều người mắc bệnh gan và thận, viêm phúc mạc, cổ chướng vùng bụng và viêm não. Một cuộc khám nghiệm tử thi đã tiết lộ thêm nhiều triệu chứng xơ gan, giãn nở cơ quan thính giác và những dây thần kinh liên quan đến tai.
Ferdinand Hiller, một nhà soạn nhạc trẻ đã cắt một ít tóc của nhà soạn nhạc và coi đó là một kỷ vật quý giá – một tục lệ chung thời kỳ đó. Món tóc này đã được gìn giữ trong gia đình Hiller trong gần một thế kỷ rồi bằng cách nào đó tới một làng chài nhỏ bé ở Gilleleje trong thời kỳ phát xít Đức kiểm soát Đan Mạch, và rơi vào tay một bác sĩ địa phương, Kay Fremming. Vị bác sĩ đã cứu giúp hàng trăm mạng sống của người Do thái trốn thoát tới ngôi làng cách eo biển Øresund 10 dặm, một biên giới tự nhiên giữa Đan Mạch và Thụy Điển. Một giả thuyết đưa ra là một trong số những người Do thái, có lẽ liên quan đến Ferdinand Hiller, đã trao cho bác sĩ Fremming nắm tóc của Beethoven hoặc dùng nó để đền đáp sự giúp đỡ của ông.
Vị bác sĩ này đã trao nắm tóc này, bao gồm 582 sợi, cho con gái của ông, người sau đó đã đưa ra bán đấu giá vào năm 1994. Một nhà niệu học ở Arizona tên là Alfredo Guevera đã mua 160 sợi với giá 7.000 USD. 422 sợi còn lại đã được quyên góp cho Trung tâm Ira F. Brilliant chuyên nghiên cứu về Beethoven tại trường đại học liên bang San Jose ở California.
Guevera và Ira Brilliant, một nhà sưu tập và từ thiện đã cùng theo đuổi câu hỏi vì sao Beethoven lại điếc. Họ đã đặt những sợi tóc màu nâu, xám và trắng vào các test hình ảnh, DNA, hóa học, pháp y và độc học. Nó không có dấu hiệu gì về morphine, thủy ngân hay arsenic nhưng lại cho thấy tỷ lệ chì ở mức bất bình thường, và chỉ cho thấy khả năng bị nhiễm độc chì, vốn có thể là khả năng dẫn đến chứng điếc ở Beethoven, dẫu cho nó không giúp giải thích được những căn bệnh mà ông mắc. Thêm vào đó nhiều nghiên cứu đã đề xuất là có thể ông uống rượu từ những các ly chứa chì. Phải lưu ý là rượu ở thời kỳ đó thường có thêm chì như một chất làm ngọt.
Hành trình của nắm tóc Beethoven và các phân tích y học đã trở thành chủ đề của một cuốn sách bán chạy “Beethoven’s Hair: An Extraordinary Historical Odyssey and a Scientific Mystery Solved” (Tóc Beethoven: Một Odyssey khác thường trong lịch sử và một bí ẩn khoa học được giải quyết) của Russell Martin.
Gần đây, vào năm 2013, một nhóm các nhà phẫu thuật tai — Michael H. Stevens, Teemarie Jacobsen, và Alicia K. Crofts của trường đại học Utah – đã xuất bản một bài báo về lịch sử sức khỏe của Beethoven trên tạp chí The Laryngoscope. Họ cũng kết luận là “thói nghiện rượu kinh niên của Beethoven với chì là lời giải thích xác đáng cho chứng điếc của ông hơn những nguyên nhân khác.”
Tuy nhiên phải nói rằng, nhiều bác sĩ và nhiều nhà bệnh học lại không hài lòng với cách giải thích này. Ví dụ vào năm 2016, một nhóm ba bác sỹ Avraham Z. Cooper, Sunil Nair và Joseph M. Tremaglio tại Trung tâm Y học Beth Israel và trường y khoa Harvard tại Boston, đã chỉ ra trong một bài viết ngắn cho American Journal of Medicine sự cần thiết cho “một chẩn đoán thống nhất để giải thích hội chứng liên quan đến những nội quan của Beethoven, bao gồm cả bệnh điếc”. Họ đề xuất hội chứng Cogan, một rối loạn miễn dịch được đánh dấu bằng một chứng viêm các mạch máu có hệ thống và bao gồm cả viêm các nội quan như gan, ruột, khớp và có thể viêm mạch lan tới các mạch máu đến tai thì sẽ dẫn đến điếc đặc.
Đây là một trong số nhiều trường hợp cá biệt của một bệnh nhân nổi tiếng trong lịch sử y học với những chứng bệnh không rõ ràng về nguyên nhân gây bệnh – một vấn đề quá phổ biến khi chẩn đoán bệnh của người qua đời trước khi y học hiện đại ra đời.
Trong những năm cuối đời, dẫu Beethoven là một nhạc trưởng và nghệ sỹ piano siêu hạng, nhưng khó có nhiều công việc cho một nhà soạn nhạc điếc nên ông phải trao cơ hội cho những người khác. Không chỉ với bản giao hưởng số 9 mà cả Missa Solemnis, một tác phẩm tôn giáo cho dàn nhạc và giọng hát, và Fidelio, cùng nhiều tác phẩm quan trọng khác.
Trong năm kỷ niệm Beethoven, nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông sẽ được chọn để trình diễn. Dù chịu nhiều chứng bệnh nhưng ông vẫn đủ khả năng tạo ra một tác phẩm đồ sộ về tình hữu ái, bản giao hưởng số 9. Thật may mắn, chúng ta có được những kiệt tác mà ông trao cho – một món quà mà ngày nay ông vẫn còn làm giàu cho thế giới này.
Anh Vũ dịch