1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Hiện tượng tâm lí là gì?
Khi ta nhìn, quan sát thấy một sự vật hiện tượng, biểu tượng đó xuất hiện trong đầu của chúng ta. Đó chính là biểu tượng tâm lí.
Khi chúng ta vui hoặc buồn, trạng thái vui hay buồn đó cũng là tâm lí.
Khi chúng ta suy nghĩ và đưa ra một nhận định, đánh giá nào đó, những nhận định đánh giá của chúng ta cũng là các hiện tượng tâm lí.
Lại nữa, có những cái không diễn ra tức thời như quá trình suy nghĩ hay như trạng thái vui, buồn mà nó chỉ là những cái khái quát từ các hiện tượng tâm lí khác. Ví dụ, khi ta nói yêu lao động thì chúng ta đã đề cập đến một nét tính cách của con người. Đối với một con người như vậy họ rất trân trọng, quý trọng sản phẩm của lao động.
Trong ngôn ngữ Việt, bên cạnh thuật ngữ tâm lí còn có thuật ngữ tâm hồn. Đôi khi người ta tách chữ tâm riêng, chữ hồn riêng. Trong Từ điển tiếng Việt (1988), tâm hồn được định nghĩa là ý nghĩ và tình cảm, làm thành đời sống nội tâm, thế giới bên trong của mỗi con người.
Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển vào não, dưới các dạng biểu tượng, hình ảnh đó không dừng lại ở mức độ xơ cứng, bất biến. Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Từ vô số các hình ảnh, biểu tượng về những ngôi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu gọn tất cả những biểu tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngôn ngữ đã giúp cho khả năng nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một cách đột phá.
Cũng nhờ có ngôn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước ngoặt vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái niệm. Nhờ có tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu vào những cái mà bằng mắt thường không thể nhìn thấy. Bằng mắt, con người không thể nào nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy thì có thể.
Như vậy có thế nhận thấy các hiện tượng tâm lí-thế giới nội tâm của con người, mặc dù là sự phản ánh thế giớ bên ngoài song nó là các hiện tượng tinh thần. Thế giới tinh thần này cũng có những cơ chế, quy luật hoạt động cho riêng mình. Bản thân nó có cấu trúc phức tạp. Để có thể nghiên cứu sâu hơn các hiện tượng tâm lí, người ta phân chia chúng thành các lớp hiện tượng khác nhau.
1.2. Các cách phân loại
- Phân chia thành ý thức và vô thức
- Căn cứ vào thờ gián tồn tại:
+ Quá trình
+ Trạng thái
+ Thuộc tính
2. CÁC QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
2.1. Nhận thức cảm tính
2.1.1. Khái niệm
Mỗi sự vật, hiện tượng quanh ta đều được thể hiện ra bên ngoài hàng loạt các đặc điểm như màu sắc(xanh, đỏ...), trọng lượng (nặng, nhẹ...), khối lượng (to, nhỏ...). Chúng ta biết được những thuộc tính đó là nhờ bộ não. Biểu tượng của những thuộc tính bề ngoài của sự vật hiện tượng khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào ta được gọi là các biểu tượng nhận thức cảm tính. Quá trình chúng ta nhận biết được các thuộc tính đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Ví dụ: khi ta nhắm mắt, người bạn đặt vào lòng bàn tay ta một vật gì đó. Nếu không sờ mó, nắm ,bóp, ta chỉ có thể cảm nhận được vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh.
Chúng ta đang quan sát ngôi nhà. Trong đầu chúng ta khi đó xuất hiện hình ảnh ngôi nhà.
Chúng ta có cảm giác nóng, lạnh, trong đầu có hình ảnh ngôi nhà…đó chính là biểu tượng nhận thức cảm tính. Khi chúng ta đang cảm thấy nóng hoặc khi chúng ta đang nhìn ngôi nhà thì đó là quá trình nhận thức cảm tính.
Đặc điểm chung nhất của nhận thức cảm tính là chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài của sự vật, hiện tượng khi sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan chúng ta.
Nhận thức cảm tính bao gồm 2 quá trình chính là cảm giác và tri giác.
2.1.2. Cảm giác
2.1.2.1. Khái niệm
Cảm giác là quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí, sơ đẳng, đơn giản nhất. Biểu tượng của nó chỉ là những thuộc tính riêng rẽ của sự vật. Tuy nhiên nó lại đóng vai trò khởi đầu cho các quá trình tâm lí khác như tưởng tượng, tư duy, trí nhớ…Cảm giác cũng là khâu đầu tiên trong sự nhận thức hiện thực khách quan của con người.
2.1.2.2. Các loại cảm giác.
Cảm giác bên ngoài
- Cảm giác nhìn (thị giác) cho chúng ta biết thuộc tính ánh sáng, mầu sắc, kích thước của đối tượng.
- Cảm giác nghe (thính giác) cho chúng ta biết những thuộc tính của âm thanh.
- Cảm giác ngửi (khứu giác) giúp con người nhận biết được mùi
- Cảm giác nếm (vị giác) giúp chúng ta nhận biết các loại vị: mặn, nhạt, đắng, cay…
- Cảm giác da: (mạc giác) cho ta biết về nhiệt độ, va chạm.
Cảm giác bên trong:
- Cảm giác vận động
- Cảm giác thăng bằng
- Cảm giác nội tạng.
2.1.2.3. Các quy luật cơ bản của cảm giác.
● Quy luật ngưỡng cảm giác (Quy luật về tính nhạy cảm)
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích. Tuy nhiên cường độ kích thích phải đạt đến độ nhất định mới có thể gây ra được cảm giác. Mức độ đó được gọi là ngưỡng cảm giác.
Ngưỡng cảm giác là cường độ tối thiểu của kích thích để có thể gây ra được cảm giác.
Quy luật này còn gọi là quy luật về tính nhạy cảm bởi lẽ khi nói đến tính nhạy cảm cao thì điều đó có nghĩa là chỉ cần cường độ kích thích nhỏ nhưng đã có thể có cảm giác. Ví dụ, người ta nói một người nào đó có đôi tai rất thính có nghĩa là với âm thanh khá nhỏ, trong khi người khác chưa nghe thấy thì người đó đã nghe thấy. Như vậy độ nhạy cảm càng cao thì có nghĩa là ngưỡng cảm giác càng thấp.
Điểm đáng lưu ý ở đây là khi chúng ta nói đến ngưỡng cảm giác là chúng ta đề cập đến đại lượng vật lí, ví dụ như cường độ âm thanh, trọng lượng…còn khi ta nói độ nhạy cảm thì đó lại là “đại lượng” tâm lí. Do không đo được trực tiếp độ nhạy cảm của giác quan nên người ta phải đo nó một cách gián tiếp, thông qua việc đo các kích thích vật lí bên ngoài.
● Quy luật thích ứng cảm giác
Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích.
Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích : khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm và ngược lại, độ nhạy cảm tăng khi cường độ kích thích giảm. Ví dụ, khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích mạnh), di vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau đó dần dần mới nhìn rõ mọi vật. Điều này là do độ nhạy cảm tăng dần.
Tất cả các giác quan đều tuân theo quy luật thích ứng. Tuy nhiên mức độ khác nhau. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao. Trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút. Bên cạnh đó, cảm giác đau hầu như không thích ứng.
Khả năng thích ứng của cảm giác cũng có thể được phát triển do rèn luyện. Ví dụ, công nhân luyện kim có thể chịu đựng được nhiệt độ cao tới 500 – 600C trong hàng giờ đồng hồ.
● Quy luật tác động lẫn nhau của cảm giác
Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn tác động qua lại lẫn nhau. Do sự tác động qua lại như vậy, tính nhạy cảm của cảm giác bị thay đổi. Kích thích yếu lên cơ quan phân tích này lại làm tăng độ nhạy cảm của giác quan kia. Ngược lại, tác động mạnh lên giác quan này làm giảm độ nhạy cảm của cơ quan phân tích khác.
Ví dụ, khi nghe nhạc, có ánh sáng mầu kèm theo thì các bản nhạc cũng được cảm nhận rõ nét hơn.
2.1.3. Tri giác
2.1.3.1. Khái niệm
Tri giác là một quá trình tâm lí nhận thức cảm tính, phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta.
Cũng giống với cảm giác, tri giác là một quá trình nhận thức cảm tính.
- Là một quá trình vì có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
- Là quá trình nhận thức vì biểu tượng tri giác giúp cho con người nhận biết được hiện thực khách quan bên ngoài.
- Là cảm tính vì chỉ gọi là biểu tượng tri giác khi sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào giác quan.
Tuy nhiên biểu tượng tri giác là là một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện tượng. Biểu tượng này được cấu thành từ các cảm giác. Ví dụ hình ảnh ngôi nhà mà chúng ta đang nhìn thấy bao gồm những cảm giác khác nhau về mầu sắc, kích thước. Lẽ đương nhiên đó không phải là một tổng số học mà là một tổng thể các cảm giác.
2.1.3.2. Các loại tri giác
- Tri giác không gian: tri giác không gian giúp chúng ta nhận biết được kích thước, hình dạng, khoảng cách, phương hướng của đối tượng.
- Tri giác thời gian: tri giác thời gian là sự phản ánh độ lâu, vân tốc và tính kế tục của các hiện tượng.
- Tri giác vận động: phản ánh những thay đổi về vị trí của các sự vật trong không gian.
Ngoài cách phân loại theo đối tượng tri giác như trên còn có cách phân loại theo giác quan. Theo cách phân loại này, chúng ta có các loại tri giác: thị giác, thính giác, khức giác…
2.1.3.3. Các quy luật cơ bản của tri giác
● Quy luật về tính đối tượng của tri giác
Hình ảnh mà tri giác đem lại bao giờ cũng là biểu tượng của một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác nói lên cái mà tri giác đem lại. Trong quy luật này đã hàm chứa tính chân thực của tri giác.
1.3.3.2. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác:
Tri giác không thể phản ánh được toàn bộ những kích thích đang tác động lên giác quan của con người ở tại một thời điểm. Do vậy để tri giác, con người phải tách đối tượng ra khỏi bối cảnh.
Sự lựa chọn của tri giác cũng không mang tính cố định. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố bên ngoài cũng như bên trong của chủ thể.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác được ứng dụng nhiều trong thực tiễn: kiến trúc, quảng cáo, quân sự (nguỵ trang), trong giáo dục và dạy học.
● Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác:
Tri giác của con người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng. Chính vì lẽ đó, biểu tượng tri giác cho phép chúng ta gọi tên được sự vật hiện tượng, có thể xắp xếp chúng vào một nhóm, lớp nhất định.
● Quy luật về tính ổn định của tri giác:
Tính ổn định của tri giác thể hiện ở chỗ trong các điều kiện khác nhau nhưng nội dung của biểu tượng tri giác vẫn không thay đổi. Ngôi nhà, dù có cách xa chúng ta hàng ngàn mét và hình ảnh của nó trên võng mạc nhỏ hơn hình ảnh của một người
đang đứng trước mặt chúng ta thì ngôi nhà vẫn được tiếp nhận to hơn so với con người. Sự ổn định tri giác còn thể hiện ở cả về mầu sắc, kích thước...
● Quy luật tổng giác:
Quy luật này thể hiện ở chỗ nội dung các biểu tượng tri giác còn phụ thuộc vào nội dung đời sống tâm lí của chủ thể: thái độ, nhu cầu, cảm xúc, động cơ...(Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ – Nguyễn Du).
●Tri giác nhầm
Trong một số trường hợp, hình ảnh của tri giác không phù hợp với thực tại. Cần phân biệt tri giác nhầm với ảo giác. Tri giác nhầm là quá trình chúng ta vẫn đang tri giác (sự vật, hiện tượng vẫn đang tác động vào giác quan) song biểu tượng tri giác không tương xứng với thực tiễn. Ví dụ, khi ta nhìn cái thìa đang để trong nửa cốc nước, ta thấy như cái thìa bị gãy ở chỗ mặt nước. Hoặc các ví dụ trong hình…ảo giác là hiện tượng con người vẫn “nhìn” thấy, ví dụ, nhìn thấy rắn rết bò đầy trên giường nhưng thực tế không có, nghe thấy tiếng nói nhưng xung quanh không có ai. Tri giác nhầm là hiện tượng bình thường còn ảo giác là hiện tượng bệnh lí.
Cảm giác và tri giác đều là quá trình nhận thức cảm tính. Trong thực tế, khi chúng ta quan sát sự vật hiện tượng thì sự xuất hiện của cảm giác và tri giác là đan xen nhau, có thể cái này xuất hiện trước cái kia. Ví dụ, “bắt mắt” là mầu đỏ, sau đó chúng ta mới quan sát tổng thể ngôi nhà. Cũng có thể hình ảnh ngôi nhà xuất hiện trước, sau đó với xuất hiện các cảm giác.
2.2. Tư duy
2.2.1. Tư duy là gì?
Cảm giác, tri giác đã giúp cho con người nhận biết được các của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là các đặc điểm bên ngoài. Để nhận biết được cái bên trong, cái cốt lõi của các sự vật hiện tượng đó, con người cần đến tư duy.
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà trước đó ta chưa biết.
2.2.2. Các đặc điểm tư duy
-Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề
Hoàn cảnh có vấn đề có thể là một bài toán, một nhiệm vụ cần phải giải quyết…Cùng một hoàn cảnh song đối với người này là hoàn cảnh có vấn đề nhưng đối với người khác lại không. Như vậy hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh kích thích con người suy nghĩ.
-Tính gián tiếp của tư duy
Tư duy nhận biết được bản chất của sự vật hiện tượng nhờ sử dụng công cụ (các dụng cụ đo đạc, máy móc…); các kết quả cả nhận thức (quy tắc, công thức, quy luật…). Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ nó được thể hiện thông qua ngôn ngữ.
- Tính trừu tượng và khái quát của tư duy:
Tư duy phản ánh cái bản chất, cái chung nhất cho một loại, một lớp hiện tượng sự và khái quát chung bởi khái niệm. Nhờ có tư duy, con người có thể đi sâu vào đối tượng, cho phép họ nhận thức được những vấn đề mà cảm giác, tri giác không tiếp cận được.
- Tư duy liên quan chặt chẽ tới ngôn ngữ
Tư duy trừu tượng không thể tồn tại nếu không có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, tư duy có được tính khái quát và gián tiếp. Cũng nhờ có ngôn ngữ, những sản phẩm của tư duy mới được truyền đạt cho người khác. Trong lâm sàng tâm thần, ngôn ngữ dược coi là hình thức của tư duy và việc phân loại các rối loạn hình thức tư duy được trên ngôn ngữ.
- Tư duy liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính thu thập tư liệu. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính là nguyên liệu cho tư duy. Tư duy phát triển cũng giúp định hướng nhận thức cảm tính.
2.2.3. Các thao tác tư duy
- So sánh
Dùng trí óc đối chiếu các đối tượng hoặc những thuộc tính, bộ phận ...để xem xét sự giống nhau hay khác nhau, đồng nhất hay không đồng nhất.
So sánh là cơ sở của mọi hiểu biết và của tư duy. Chúng ta nhận biết thế giới không ngoài cách thông qua so sánh và phân biệt với một vật gì khác thì chúng ta không thể có ý niệm nào và không thể nói lên một điểm nào về sự vật đó cả.
- Phân tích và tổng hợp
Phân tích: dùng óc phân chia đối tượng thành bộ phận, thuộc tính, quan hệ.
Tổng hợp: kết hợp những đối tượng, thuộc tính quan hệ v.v.. thành tổng thể
- Trừu tượng hoá và khái quát hoá
Trừu tượng hoá: gạt bỏ những bộ phận, thuộc tính, quan hệ thứ yếu, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết của đối tượng để tư duy.
Khái quát hoá là dùng trí óc bao quat nhiều đối tượng khác nhau trên cơ sở một số thuộc tính, quan hệ, bộ phận giống nhau sau khi đã gạt bỏ những điểm khác nhau.
Khái quát hoá là loại tổng hợp mới sau khi đã trừu tượng hoá
Trong tư duy, các thao tác được thực hiện theo một hệ thống nhất định
2.2.4.Các loại tư duy
2.2.4.1. Theo lịch sử hình thành
- Tư duy trực quan-hành động:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ các tình huống bằng các hành động vận động có thể quan sát được. Loại tư duy này có ở cả động vật cao cấp.
- Tư duy trực quan-hình ảnh:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết các nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh mà thôi. Loại này đã phát triển mạnh ở tre nhỏ.
- Tư duy trừu tượng:
Loại tư duy được thực hiện trên cơ sở sử dụng các khái niệm, kết caúu logic, được tồn tại trên cơ sở tiếng nói.
Ba loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn của phát triển tư duy trong quá trình phát sinh chủng loại và cá thể.
2.2.4.2. Theo hình thức biểu hiện của vấn đề (nhiệm vụ) và phương thức giải quyết vấn đề
- Tư duy thực hành:
Tư duy thực hành là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ, tư duy của người thợ sửa xe hơi khi xe hỏng.
- Tư duy hình ảnh cụ thể:
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra dưới hình thức một hình ảnh cụ thể và sự giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh đã có. Ví dụ, suy nghĩ xem từ trường về nhà đi đường nào là tối ưu cho xe máy.
- Tư duy lí luận:
Đó là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức lí luận và việc giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng hệ thống khái niệm trừu tượng, những tri thức lí luận. Ví dụ giải quyết các bài toán về kinh doanh.
2.3. Ngôn ngữ
Mặc dù ngôn ngữ không phải hoàn toàn là quá trình nhận thức song nó gắn bó một cách mật thiết với tư duy nên chúng ta đề cập sâu thêm về hiện tượng tâm lí này cũng là nhằm hiểu sâu sắc hơn lĩnh vực nhận thức.
2.3.1. Khái niệm về ngôn ngữ
Con người có khả năng truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho người khác và sử dụng kinh nghiệm của ngươì khác vào hoạt động của mình nhờ có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội – lịch sử . Do sống và hoạt động cùng nhau nên con người có nhu cầu giao tiếp.
Nói một cách chung nhất, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ.
Ngôn ngữ - hệ thống kí hiệu từ ngữ gồm 3 bộ phận:
- Ngữ âm
- Từ vựng
- Ngữ pháp – hệ thống các quy tắc thành lập từ, cấu thành câu (từ pháp và cú pháp), sự phát âm (âm pháp).
Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản...
2.2.3.2. Các chức năng của ngôn ngữ.
- Chức năng chỉ nghĩa:
Ngôn ngữ để chỉ chính sự vật, hiện tượng, tức là thay thế chúng. Nói một cách khác, ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có thể được khách quan hoá lần nữa và có thể di chuyển đi nơi khác, làm cho con người có thể nhận thức được chúng ngay cả khi chúng không xuất hiện trước mặt.
Chức năng chỉ nghĩa còn được gọi là chức năng làm phương tiện tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người.
Ngôn ngữ khác hẳn với những tiếng kêu của động vật. Về bản chất, động vật không có ngôn ngữ.
- Chức năng thông báo:
Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt, tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ đó, điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động của con người.
Chức năng thông báo của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng giao tiếp.
- Chức năng khái quát hoá:
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ mà cả một loại, lớp có chung một/một số thuộc tính: phạm trù, khái niệm, thuật ngữ...Nhờ vậy nó là phương tiện đắc lực cho hoạt động trí tuệ.
Ngôn ngữ vừa là công cụ tồn tại của hoạt động trí tuệ, vừa là phương tiện lưu lại kết quả của hoạt động này. Do vậy hoạt động trí tuệ không bị gián đoạn, không bị lặp lại và có cơ sở cho sự phát triển tiếp theo.
Chức năng khái quát hoá của ngôn ngữ còn gọi là chức năng nhận thức hay chức năng làm công cụ hoạt động trí tuệ.
Trong 3 chức năng của ngôn ngữ kể trên, chức năng giao tiếp là chức năng cơ bản nhất. Chỉ trong quá trình giao tiếp, con người mới lĩnh hội được tri thức về hiện thực, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh sống. Về thực chất, chức năng nhận thức cũng là quá trình giao tiếp, ở đây là giao tiếp với chính bản thân mình. Còn chức năng chỉ nghĩa chỉ là điều kiện để thực hiện hai chức năng kia.
2.3.3. Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức
Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức cảm tính.
- Đối với cảm giác: ảnh hưởng mạnh đến ngưỡng cảm giác.
- Đối với tri giác: làm cho quá trình tri giác dễ dàng hơn, đặc biệt trong quan sát.
- Đối với trí nhớ:
Vai trò của ngôn ngữ trong nhận thức lí tính.
Gắn bó rất mật thiết với tư duy. ở người trưởng thành, tư duy và ngôn ngữ không tách rời nhau.
Ngôn ngữ là phương tiện để truyền tải tư duy.
2.4. Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và lí tính.
+ Nhận thức của con người bắt đầu từ nhận thức cảm tính.
+ Các biểu tượng nhận thức cảm tính được trí nhớ lưu giữ lại.
+ Nhiều biểu tượng cùng loại với nhau được “cô đặc” lại vào từ.
+ Các từ, khái niệm (hoặc cũng có thể các biểu tượng cảm tính) được sử dụng cho tư duy: giải quyết một nhiệm vụ nào đó.
+ Biểu tượng cảm tính càng phong phú thì hệ thống khái niệm cũng phong phú theo và là điều kiện tốt cho tư duy.
+Tư duy, ngôn ngữ phát triển nó sẽ định hướng, lựa chọn, hỗ trợ đắc lực (cùng với cảm xúc, tình cảm) cho nhận thức cảm tính.
3. ĐỜI SỐNG TÌNH CẢM
3.1. Khái niệm
Trong đời sống cũng như trong các tài liệu tâm lí học, thuật ngữ tình cảm được sử dụng theo 2 nghĩa:
- Lĩnh vực đời sống tình cảm của con người.
-Thuộc tính nhân cách: tình yêu, lòng thù hận...
Lĩnh vực đời sống tình cảm của con người cũng là một chỉnh thể, bao gồm từ mức độ thấp như các rung động cho đến cảm xúc và phức tạp nhất là tình cảm. Để dễ phân biệt, thay vì gọi đời sống tình cảm, người ta thường dùng cụm từ cảm xúc, tình cảm.
Mọi hoạt động của con người đều nhằm thoả mãn những nhu cầu nhất định. Nếu thoả mãn nhu cầu, con người cảm thấy khoan khoái, dễ chịu. Trái lại, nếu không được thoả mãn nhu cầu, con người cảm thấy khó chịu, bực bội, chán nản. Toàn bộ những hiện tượng: vui sướng, bực bội, chán nản…là các hiện tượng cảm xúc.
Cảm xúc, tình cảm là những hiện tượng tâm lí phản ánh mối quan hệ của sự vật hiện tượng có liên quan tới sự thoả mãn nhu cầu của chủ thể.
- So sánh tình cảm và nhận thức:
-Cơ sở sinh lí của cảm xúc:
Có thể nói ở góc độ sinh lí, cảm xúc được điều hành và kiểm soát bởi 2 cơ chế: thần kinh và thể dịch. Sự gắn bó chặt chẽ này là cơ sở cho nhiều nghiên cứu đo các phản ứng cảm xúc gián tiếp qua các chỉ số sinh lí (xem thêm trong giáo trình).
- Phân biệt cảm xúc và tình cảm:
3.2. Các mức độ của tình cảm.
3.2.1. Sắc thái cảm xúc của cảm giác
Đây là mức độ thấp nhất của phản ánh cảm xúc, đi kèm theo cảm giác. Ví dụ, mầu xanh lá cây thường gây ra trạng thái khoan khoái, nhẹ nhõm; mầu đỏ kèm theo một cảm xúc rạo rực, nhức nhối.
Trong tiếng Việt: đỏ lòm, xanh lè, inh tai, nhức óc...nói lên sắc thái cảm xúc của cảm giác.
Sắc thái cảm xúc: thoáng qua, không mạnh mẽ, mang tính chất rất cụ thể, gắn liền với cảm giác nhất định và không được chủ thể ý thức một cách rõ ràng, đầy đủ.
3.2.2. Rung cảm
Là những cảm xúc ban đầu, có cường độ thấp, chưa biểu lộ rõ net ra bên ngoài. Những rung cảm thường thoáng qua, không rõ nét và dễ mất đi, không đẻ lại dấu vết gì: buồn thoảng qua, vui thoảng qua...
3.2.3.Cảm xúc
Đây là mức độ phản ánh cao hơn, thường là sự thể hiện cụ thể, trực tiếp một tình cảm nào đó.
Cảm xúc có những đặc điểm: xẩy ra nhanh, mạnh, rõ rệt hơn so với mầu sắc của cảm xúc, được chủ thể ý thức rõ nét hơn.
Trong cảm xúc cũng có một số dạng đặc biệt:
+ Xúc động: Xúc động là dạng cảm xúc có cường độ mạnh, xảy ra trong thời gian ngắn, chủ thể vẫn ý thức được song khó có khả năng làm chủ được hành vi của mình ( Cả giận mất khôn – thành ngữ).
+ Tâm trạng: Tâm trạng là một dạng cảm xúc diễn ra trong một thời gian dài, cường độ thể hiện yếu, nhiều khi chủ thể không ý thức được nguyên nhân:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn. (Xuân Diệu)
Tâm trạng là một trạng thái tâm lí (cụ thể ở đây là cảm xúc), làm nền cho các hoạt động của con người và ảnh hưởng rõ rệt đến toàn bộ hành vi của chủ thể...
Trạng thái stress cũng là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Nó được xem ở góc độ là sự đáp ứng (cả về sinh lí, tâm lí và hành vi) của chủ thể đối với những tác động/ tình huống gây stress. Trạng thái stress có thể ảnh hưởng tốt hoặc không tốt đến các hoạt động của con người.
3.2.4.Tình cảm:
Đó là thái độ ổn định của con người đối với hiện thực xung quanh và đối với bản thân mình.
Tình cảm là thuộc tính của nhân cách. Nó có các đặc điểm: ổn định, được ý thức rõ ràng.
Trong tình cảm có một dạng đặc biệt, có cường độ rất mạnh, thời gian tồn tại khá lâu dài và được ý thức rõ ràng: sự say mê. Có say mê tích cực nhưng cũng có say mê tiêu cực thường được gọi là đam mê.
Con người có nhiều loại tình cảm khác nhau. Có thể phân chia thành tình cảm cấp thấp và tình cảm cáp cao. Tình cảm cấp thấp liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu sinh lí, tình cảm cấp cao liên quan đến sự thoả mãn nhu cầu xã hội của người.
3.3. Các loại tình cảm
3.3.1.Tình cảm đạo đức
Tình cảm đạo đức là những tình cảm có liên quan đén sự thoả mãn nhu cầu đạo đức của con người. Tình cảm đạo đức còn là sự thể hiện thái độ của con người đối với người khác, đối với xã hội và đối với tránh nhiệm xã hội của bản thân.
- Tình yêu tổ quốc, yêu quê hương, yêu ông bà cha mẹ...
3.3.2. Tình cảm trí tuệ:
Tình cảm trí tuệ là những tình cảm nảy sinh trong quá trình hoạt động trí óc. Nó liên quan đến nhận thức, sáng tạo, đén sự thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người.
Tình cảm trí tuệ biểu hiện thái độ của con người đối với các ý nghĩ, tư tưởng, các quá trình và kết quả hoạt động trí tuệ . Đó là: Cự ham hiểu biết, ngạc nhiên, hoài nghi, tin tưởng...
3.3.3. Tình cảm thẩm mĩ
Tình cảm thẩm mĩ là những tình cảm có liên quan đến nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu về cái đẹp của con người. Tình cảm thẩm mĩ biểu hiện thái độ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực ( tự nhiên, xã hội, con người, lao động).
3.4. Các quy luật của tình cảm
3.4.1.Quy luật lây lan
Cảm xúc, tình cảm của người này có thể được truyền, “lây” sang người khác: buồn lây, vui lây...
Tình cảm tập thể, tâm trạng tập thể, tâm trạng xã hội được hình thành theo quy luật này.
3.4.2. Quy luật thích ứng
Giống như cảm giác, cảm xúc, tình cảm cũng có hiện tượng thích ứng, nghĩa là khi chúng được lặp đi lặp lại nhiều lần thì cường độ bị suy yếu và lắng xuống (chai dạn tình cảm). Hiện tượng “xa thương, gần thường” là một trong những biểu hiện của quy luật này.
3.4.3.Quy luật tương phản (hay cảm ứng)
Đó là sự tác động qua lại giữa những cảm xúc trái chiều nhau: những cảm xúc âm tính lại có thể làm tăng cường độ của cảm xúc dương tính và ngược lại.
Cũng như trong cảm giác, quy luật tương phản của cảm xúc, tình cảm diễn ra theo 2 góc độ: tương phản kế tiếp và tương phản đồng thời.
43..4. Quy luật di chuyển
Cảm xúc, tình cảm có thể được di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác:
Yêu em yêu cả đường đi lối về hoặc: “Giận cá chém thớt; Vơ đũa cả nắm đều là những biểu hiện của quy luật này.
3.4.5. Quy luật pha trộn
Quy luật pha trộn thể hiện ở chỗ trong một loại tình cảm cùng tồn tại những cảm xúc trái dấu với nhau. Chúng không những không loại trừ nhau mà ngược lại, có thể còn diễn biến theo quy luật tương phản. Những cảm xúc yêu thương và ghen tuông có thể cùng tồn tại trong tình yêu. Không ít trường hợp càng yêu mãnh liệt, càng ghen dữ dội.
3.4.6. Quy luật về sự hình thành tình cảm
Tình cảm được hình thành theo con đường tổng hợp hoá và khái quát hoá các cảm xúc cùng loại. Ví dụ, tình cảm của con cái đối với cha mẹ là do các cảm xúc dương tính do cha mẹ đem lại trong suốt quá trình lớn khôn của đứa trẻ tạo thành.
4. HOẠT ĐỘNG VÀ NHÂN CÁCH
4.1. Hoạt động.
4.1.1. Khái niệm hoạt động
Khái niệm của triết học: Hoạt động là quan hệ biện chứng của chủ thể với khách thể bao gồm:
- Quá trình khách thể hoá: chủ thể chuyển những đặc điểm của mình vào đối tượng.
- Quá trình chủ thể hoá khách thể: chủ thể tiếp thu những đặc điểm của khách thể vào năng lực của bản thân.
Khái niệm của Sinh lí học: Hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và cơ bắp của con người khi tác động vào hiện thực khách quan.
Tâm lí học:
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng, tạo ra sản phẩm nhằm thoả mãn những nhu cầu (trực tiếp/gián tiếp) của bản thân và xã hội.
Hoạt động là sự thể hiện mối quan hệ của con người với môi trường xung quanh.
Hoạt đông luôn nhằm thỏa mãn nhu cầu nhất định.
4.1.2. Các loại hoạt động
+ Về phương diện cá thể, có thể chia thành các loại hoạt động:
- Vui chơi
- Học tập
- Lao động.
+ Về phương diện sản phẩm, có thể chia thành:
- Hoạt động thực tiễn: tạo ra sản phẩm vật chất. Còn gọi là hoạt động bên ngoài.
- Hoạt động lí luận; sản phẩm tinh thần. Còn gọi là hoạt động bên trong.
Dạng hoạt động thứ nhất tác động vào sự vật nhằm biến đổi sự vật.
Dạng hoạt động thứ hai không làm biến đổi vật thể tại vật thể.
+ Cách chia khác
- Hoạt động biến đổi: dạng điển hình là lao động. Tuy nhiên hoạt động biến đổi còn bao hàm cả biến đổi xã hội:
+ Hoạt động xã hội – chính trị
+ Hoạt động quản lí (xã hội, kimh tế, khoa học v.v.)
+ Hoạt động biến đổi con người.
- Hoạt động nhận thức: là một dạng hoạt động tinh thần, không làm biến đổi các vật thể thực, quan hệ thực. Nó chỉ phản ánh các sự vật, quan hệ bằng các biểu tượng, khái niệm, hình ảnh...
Hoạt động nhận thức có cả ở mức độ kinh nghiệm thực tiễn, có cả ở mức độ lí luận khoa học.
- Hoạt động định hướng giá trị.
Hoạt động định hướng giá trị là một dạng hoạt động tinh thần, xác định ý nghĩa của thực tại đối với bản thân.
4.1.3. Cấu trúc của hoạt động.
Theo các nhà tâm lí học mác xít, có thể phân tích hoạt động thành các thành tố cấu thành:
Mỗi hoạt động của con người được thúc đẩy bởi một hay một số động cơ. Đơn vị của hoạt động là hành động. Hành động nhằm đạt được mục đích nhất định. Trong một hoàn cảnh cụ thể, hành động được thực hiện bởi một loạt các thao tác. Kết quả cuối cùng là sản phẩm của hoạt động.
Ví dụ, hoạt động học tập của sinh viên được thúc đẩy bởi động cơ nghề nghiệp (và có thể có cả các động cơ cá nhân khác). Hoạt động học tập được chia nhỏ thành các hành động nhằm đạt được từng mục tiêu cụ thể trên đườc đi tới đích cuối cùng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng cấu trúc của hoạt động là rất linh hoạt. Việc phân biệt, ví dụ động cơ với mục đích cũng chỉ mang tính tương đối mà thôi.
4.1.4. Các loại nhu cầu của con người.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu, khách quan, là sự cần thiết về một cái gì đó cần được thỏa mãn. Chính mọi hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu nào đó nên các nhu cầu của con người, được tập hợp lại trong một hệ thống nhất định, đóng vai trò là động cơ thúc đẩy mọi hoạt động.
Nhu cầu của con người rất đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể chia thành 2 nhóm chính là nhu cầu (mang tính) sinh học và nhu cầu (mang tính) xã hội. Hoặc cũng có thể chia thành nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu sinh học/sinh lí: là những nhu cầu cần để duy trì sự tồn tại của cơ thể người. Ví dụ, nhu cầu về ăn, uống, nhu cầu tình dục.
Nhu cầu vật chất: là những đòi hỏi về vật chất.
Nhu cầu tinh thần: rất đa dạng và phong phú. Đó là những nhu cầu vè đạo đức, thẫm mĩ, nhu cầu về nhận thức và giao tiếp, nhu cầu lao động cũng như các hoạt động xã hội.
Maslow, một nhà tâm lí học Mĩ xếp nhu cầu của con người thành 5 bậc:
Một điều không kém phần quan trọng là khi xem xét hành động/hành vi của con người, cần phải xem xét xem những hành động/ hoạt động đó do động cơ gì. Nói cách khác là cần quan tâm đến lĩnh vực động cơ-nhu cầu của mỗi con người.
4.1.5. Kĩ năng, kĩ xảo và thói quen.
+ Hành động tự động hoá:
Hành động tự động hoá là những hành động vốn lúc đầu có sự kiểm soát mạnh mẽ của ý thức sau do lặp đi lặp lại nhiều lần, trở thành tự động. Vai trò kiểm soát của ý thức đối với hành động tự động hoá chỉ ở mức độ tối thiểu, công việc này chủ yếu dành cho vô thức. Trong quá trình thực hiện, nếu có gì bất thường, ý thức lại dành quyền kiểm soát, điều hành hành động.
+ Kĩ năng và kĩ xảo:
Kĩ năng là khả năng vận dụng những tri thức vào thực tiễn. Khi nào kĩ năng được luyện tập thường xuyên trở thành tự động hoá, khi đó trở thành kĩ xảo.
+ Thói quen:
Thói quen là những hành động đã được tự động hoá và trở thành nhu cầu của con người. Ví dụ, thói quen rửa tay trức khi ăn.
4.2. Nhân cách
4.2.1. Một số khái niệm
+ Con người: thực thể tự nhiên (động vật có vú) và là thực thể xã hội ( chủ thể của các hoạt động cá nhân và xã hội). Con người là một sáng tạo mới của lịch sử.
+ Cá nhân: đại diện cho loài người, bất kì một con người nào tồn tại trong mỗi cộng đồng.
+ Cá tính: mỗi cá nhân khác nhau về thể tạng, kiểu loại thần kinh cũng như về tính cách, nhu cầu, tình cảm...Những đặc điểm riêng của cá nhân được bộc lộ trong các mối quan hệ, trong cuộc sống theo kiểu riêng biệt, không trùng lặp với ai được gọi là cá tính.
- Cá tính nói lên bản sắc cá nhân của mỗi con người.
+ Nhân cách
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, thuộc tính tâm lí của mỗi cá nhân, biểu hiện bản sắc, giá trị xã hội của con người đó. Theo tiếng Việt: nhân - người, cách - cách thức, cách lối, cốt cách. Nhân cách: đó là cách thức, cách lối làm người.
Nhân cách: cấu tạo tâm lí mới, có khả năng tự điều chỉnh, có cấu trúc phức tạp.
4.2.2. Cấu trúc của nhân cách
4.2.2.1. Cấu trúc theo kiểu, loại
* Phân kiểu dựa theo khí chất ưu thế:
- Kiểu nhân cách nóng nảy. Đây là nhân cách của người có kiểu thần kinh mạnh, không cân bằng, hưng phấn mạnh hơn ức chế. Họ là những người nhanh thay đổi khí sắ, yêu, ghét rõ ràng, bộc trực, thẳng thắn, dễ nổi nóng, chú ý đến những cái lớn. Họ là người dễ có sáng kiến song kém bền bỉ trong công việc.
- Kiểu nhân cách bình thản. Kiểu thần kinh của nhân cách dạng này là mạnh, cân bằng, không linh hoạt. Các mối quan hệ của họ khong rộng, hình thành chậm nhưng bền. Trong công việc họ chậm nhưng chắc, có khả năng thực hiện công việc một cách bền bỉ.
- Kiểu nhân cách hăng hái, sôi nổi. Đây là kiểu nhân cách tương ứng với kiểu thần kinh mạnh, cân bằng, linh hoạt. Người có kiểu nhân cách này là người hăng hái trong công việc, dễ thích nghi với hoàn cảnh mới, các mối quan hệ rọng. Tuy nhiên tình cảm của họ thường không sâu bền, dễ bắt tay vào công việc song cũng dễ rút lui.
- Kiểu nhân cách ưu tư. Cơ sở thần kinh của kiểu nhân cách này là kiểu thần kinh yếu, ức chế mạnh hơn hưng phấn. Họ là người nhạy cảm, tinh tế, dễ xúc động, các quyết định thường dựa trên tình cảm. Quan hệ hẹp nhưng sâu và bền. Tuy nhiên họ thường khó thích nghi với cái mới, nhút nhát và kém quyết đoán.
* Phân kiểu dựa theo mẫu hành vi ưu thế:
Hiện nay trong nhiều tài liệu tâm lí lâm sàng đề cập đến cách phân kiểu nhân cách dựa vào mẫu hành vi nổi bật của Friedman A. và Roseman:
+ Nhân cách týp A có 3 đặc điểm nổi bật là:
- Nhanh chóng trong hành động.
- Quan tâm đến nghề nghiệp rõ rệt
- Có tinh thần cạnh tranh
Những người này thường có tỉ lệ mắc bệnh động mạch vành cao hơn (giao động từ 30%-70% tuỳ theo từng nghiên cứu) so với tỉ lệ chung.
+ Nhân cách týp B có những đặc điểm nổi bật:
- Có thái độ rút lui trong hành động
- Thường hay thay đổi ý thích.
Kiểu A: người hăng hái, có tính ganh đua rất cao, kiểu B ngược lại.
* Kiểu nhân cách hướng nội, hướng ngoại
+ Người hướng ngoại điển hình là người cởi mở, giao tiếp rộng, có nhiều bạn, người quen. Họ hành động dưới ảnh hưởng chốc lát, có tính chất xung động, vô tâm, lạc quan, thích vận động và hành động. Tình cảm và cảm xúc của họ không được kiểm soát chặt chẽ.
+ Người hướng nội điển hình là người điềm tĩnh, rụt rè, nội quan, hay giữ kẽ, ít tiếp xúc, giao tiếp với mọi người, trừ những bạn bè thân. Họ có khuynh hướng muốn hoạch định kế hoạch hành động. Không thích sự kích động, làm công việc hàng ngày với tinh thần nghiêm túc, thích trật tự, ngăn nắp. Kiểm soát chặt chẽ cảm xúc tình cảm của mình, không dễ dàng buông thả.
4.2.2.2. Cấu trúc ba khối: Cái Nó - Cái Tôi, Siêu tôi:
Nhân cách, theo Freud, gồm 3 bộ phận, 3 "con người" bé nhỏ: Cái Nó (Id); cái Tôi "Ego" và cái Siêu tôi (Super Ego).
+ Cái Nó. Đây là con người của bản năng, đòi hỏi thoả mãn mọi nhu cầu và phải thoả mãn ngay lập tức. Ví dụ, khi đói, con người bản năng này thúc đẩy cơ thể phải có những hành động để thoả mãn cái đói. Trong thành phần của Cái nó chỉ có vô thức.
+Cái Tôi- con người của hiện thực. Không thể thoả mãn nhu cầu bằng mọi giá mà cần phải tính đến hoàn cảnh hiện thực. Phần nhân cách Cái Tôi thực hiện các hoạt động chống lại Cái Nó bằng cách giành quyền làm chủ các ham muốn, quyết định xem những đòi hỏi ấy có thể được thoả mãn hay không? phải trì hoãn đến thời điểm khác hay phải loại bỏ hoàn toàn? Freud đã ví Cái Nó như con ngựa, thích chạy hướng nào tuỳ thích. Tuy nhiên cần phải có người kiểm soát con ngựa đó. Cái tôi đóng vai trò kị sĩ để điều khiển con ngựa Cái Nó.
Trong thành phần của mình, cái tôi chứa chủ yếu là ý thức. Vô thức cũng có nhưng chiếm tỉ lệ nhỏ.
Siêu tôi–con người xã hội. Con người sống trong xã hội và cần phải thể hiện mình theo những yêu cầu về đạo đức, pháp luật, những yêu cầu mà xã hội đòi hỏi. Cũng là đói, cũng là có thức ăn song người ta đã dạy rằng có những “miếng ăn là miếng nhục”. Trong một chừng mực nào đó, Siêu tôi còn được gọi là con người lí tưởng bởi nó là bộ phận luôn thúc đẩy con người tới hoàn thiện.
4.2.2.3. Cấu trúc yếu tố:
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong mỗi nhân cách có các yếu tố khác nhau cấu thành khác nhau. Tuy nhiên số lượng yếu tố được đưa ra lại không giống nhau.
+ Nhân cách bao gồm 4 nhóm thuộc tính chính. Mô hình nay đang được đề cập nhiều trong các giáo trình tâm lí học trong nước:
- Xu hướng: Đó là hệ thống những động cơ, mục đích thúc đẩy, quy định tính lựa chọn thái độ và tính tích cực của con người. Xu hướng bao gồm một hệ thống các nhu cầu, hứng thú, niềm tin, thế giới quan, lí tưởng tác động qua lại và liên hệ mật thiết với nhau.
- Tính cách: hệ thống thái độ, hành vi của con người đối với mọi người xung quanh, đối với xã hội và đối với bản thân.
- Khí chất: nói về động thái (cường độ, nhịp độ..) của các hiện tượng tâm lí cá nhân.
- Năng lực: Hệ thống các khả năng đẩm bảo cho kết quả của các hoạt động.
+ Nhân cách bao gồm 2 yếu tố chính: yếu tố hướng nội, hướng ngoại và yếu tố tính ổn định thần kinh. Hai yếu tố này kết hợp với nhau tạo nên kiểu nhân cách. Mô hình 2 yếu tố này về cơ bản, tương thích với mô hình dựa theo khí chất.
+ Nhân cách bao gồm 16 yếu tố. Đây là mô hình do Cattell đề xuất trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn.
+ Mô hình 5 yếu tố. Đây là mô hình đang được ưa dùng hiện nay. Năm yếu tố gồm:
- Tính ổn định thần kinh: Lo âu, Thù địch, Trầm cảm, Tự ý thức, Xung động, Tính dễ bị tổn thương.
- Tính hướng ngoại: Thân thiện, Thích giao thiệp, Tính quyết đoán, Tích cực hoạt động, Tìm kiếm sự kích thích, Cảm xúc tích cực.
- Tính mở đối với hiểu biết: Trí tưởng tượng, óc thẩm mĩ, Nhạy cảm, Hành động, ý tưởng, Giá trị.
- Tính dễ chịu: Chân thành, Thẳng thắn, Vị tha, Phục tùng, Khiêm tốn, Nhân hậu.
- Tính ý thức: Năng lực, Trật tự, Trách nhiệm, Nỗ lực thành đạt, Tự giác, Thận trọng.
4. 2.2.4. Cấu trúc hai mặt Đức Tài.
Đây là mô hình truyền thống ở trong nước, các nhà tâm lí học đã đúc kết lại:
3. Các con đường hình thành nhân cách.
Nhân cách con người khônG được sinh ra mà là được hình thành. Trong quá trình hình thành nhân cách thì giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể có vai trò quyết định và tạo ra những con đường cơ bản nhất.
3.1. Giáo dục
Giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển của nhân cách.
Giáo dục: toàn bộ các tác động sư phạm trực tiếp và gián tiếp, trong nhà trường, gia đình và ngoài xã hội. Theo nghĩa hẹp, giáo dục thường được hiểu là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về mặt tư tưởng, đạo đức, hành vi.
Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách.
Giáo dục có thể đem lại những cái mà yếu tố bẩm sinh – di truyền hoặc môi trường tự nhiên không thể đem lại được: học tập, học nghề...
Giáo dục bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật.
Giáo dục có thể uốn nắn, điều chỉnh những phẩm chất tâm lí xấu.
Giáo dục có thể đi trước hiện thực.
3.2. Hoạt động.
Tâm lí được hình thành và thể hiện trong hoạt động: thông qua hoạt động và bằng hoạt động, chủ thể thực hiện quá trình kép – nhập tâm và xuất tâm. Bằng hoạt động và thông qua hoạt động con người lĩnh hội cũng như truyền đạt kinh nghiệm xã hội - lịch sử.
3.3 Giao tiếp:
Giao tiếp là điều kiện để con người thực hiên các hoạt động cùng nhau, nhằm lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử.
Giao tiếp là con đường để loài người thực hiện di truyền xã hội. Nhờ có giao tiếp, con người có thể nhận thức được thế giới, nhận thức được chính bản thân.
3.4. Tập thể:
Mọi sự giao tiếp của con người đều diễn ra trong nhóm. Các tổ chức, hoạt động của nhóm đều là điều kiện cho sự hình thành nhân cách của con người.
|