1. Đặc điểm phát triển thẩm mỹ của trẻ em, mục tiêu và kết quả mong đợi theo Chương trình GDMN.
Xác định đặc điểm phát triển thẩm mĩ của trẻ mầm non
Tuổi mầm non, đặc biệt ở tuổi mẫu giáo là thích nhạy cảm với những “cái đẹp" xung quanh, có thể coi đây là thời điểm phát cảm của những xúc cảm thẩm mĩ - những xúc cảm tích cực, dễ chịu được nảy sinh khi trẻ tiếp xúc trục tiếp với “cái đẹp". Từ những xúc cảm tích cực, trẻ bắt đầu mong muốn thể hiện trong các hoạt động nghệ thuật.
* Đặc điểm cơ bản của hoạt động tạo hình ở tuổi mẩm non ở hoạt động giờ tạo hình
Hoạt động tạo hình (HĐTH) còn gọi là hoạt động tạo ra cái đẹp trong cuộc sống và trong nghệ thuật bằng ngôn ngữ, phương tiện tạo hình. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa đường nét - màu sắc - hình khối và bố cục trong không gian.
HĐTH luôn gắn liền với đời sống hiện thực nhằm thỏa mãn nhu cầu về cái đẹp của con người trên hai lĩnh vực:
+ Tạo ra các tác phẩm nghệ thuật taoh hình.
+ Đưa ra cái đẹp vào cuộc sống.
Nghệ thuật tạo hình bao gồm các chuyên nghành hội họa, đồ họa, điêu khắc, trang trí thủ công mĩ nghệ.
Đặc điểm cơ bản của hoạt động tạo hình ở trẻ mầm non.
HĐTH của trẻ chưa phải là một hoạt động sáng tạo nghệ thuật thực thụ. Qúa trình hoạt động và sản phẩm HĐTH của trẻ thể hiện các đặc điểm của một nhân cách đang được hình thành
HĐTH ở trẻ nhỏ gồm các dạng: vẽ, nặn, xé dán, chắp ghép. Khả năng thể hiện tính truyền cảm qua các phương thức HĐTH cửa trê được phát triển theo từng độ tuổi
Trẻ 2-3 tuổi
Thể hiện bằng đường nét, hình dạng song chua thể tạo nên những hình ảnh rõ ràng, biểu cảm bằng cách sử dụng một sổ chấm vạch, đường nét khác nhau bố sung vào các hình do người lớn vẽ sẵn hoặc hình vẽ do trẻ tình cờ tạo nên trước đó.
Trẻ 3-4 tuổi
Các kỉ nâng tạo hình của trẻ 3-4 tuổi ở mức độ đơn giản. trẻ có thể vẽ tương đối chuẩn xác các hình hình học (tròn, vuông, tam giác) và rất tích cực, linh hoạt vận dụng phương thức vẽ các hình cơ bản này để thể hiện các sự vật đơn giản mà trẻ quan sát được trong môi trường xung quanh.
Trẻ 4-5 tuổi
Cùng với việc hoàn thiện dần các kĩ năng tạo hình, trẻ ở lứa tuổi này đã hiểu được chức năng thẩm mĩ của các đường nét, hình khối. Trẻ có khả năng phân biệt và điều chỉnh các nét vẽ, tạo ra nhiều hình khác nhau.
Trẻ 5-6 tuổi
Cùng với sự tăng lên của các kinh nghiệm nhận thứ, năng lực thẩm mĩ, các ấn tượng, xúc cảm tình cảm và phát triển kĩ năng vận động tính khéo léo, trẻ 5-6 tuổi có thể sử dụng các đường nét liên mạch, uyển chuyển, mềm mại để miêu tả tính trọn vẹn của đối tượng trong cấu trúc và bố cục hợp lí.
* Đặc điểm cơ bản của hoạt động âm nhạc ở tuổi mầm non
* Hoạt động âm nhạc
Ở trường mầm non, đặc biệt là đối với lứa tuổi mẫu giáo, âm nhạc là một trong những loại hình nghệ thuật phát triển năng lực cảm xúc, tưởng tượng, sáng tạo, sự tập trung chú ý, khả nâng diễn tả hứng thú của trẻ.
Khác với các loại hình nghệ thuật như hội họa, văn học,.,... âm nhạc không hoàn toàn sác định rõ những hình ảnh cụ thể. âm nhạc bằng ngôn ngữ riêng là giai điệu, âm sắc, cường độ, nhịp độ, hỏa âm, tiết tấu... cùng với thời gian đã thu hút, hấp dẩn, lầm thỏa mãn nhu cầu tình cảm của trẻ.
Đặc điểm phát triển khả năng âm nhạc của trẻ mầm non
Trẻ 3-4 tuổi
Đây là giai đoạn chuyển từ nhà trẻ lên mẫu giáo. Về ngôn ngữ, trẻ đã nói được liên tục hơn. Những biểu hiện về thái độ cũng rõ rệt hơn như ngạc nhiên, thích thú, chăm chú... được bộc lộ rõ trong vận động như: giậm chân, vỗ tay, vẩy tay... theo âm nhạc.
Ở trẻ xuất hiện sự hứng thú với âm nhạc, đôi khi trẻ hứng thú với một dạng âm nhạc hoặc với một tác phần âm nhạc nào đó. Tuy nhiên, cảm xúc và hứng thú âm nhạc chưa ổn định, nhanh chóng xuất hiện và cũng mất ngay.
Trẻ có thể tự hát hoặc có sự hỗ trợ chút ít của người lớn để hát những bài hát ngắn, đơn giản.
Trẻ độ tuổi này có thể làm quen với một số nhạc cụ gõ đệm như: trống con, chũm chọe..., tập sử dụng gõ đệm theo nhịp bài hát.
Trẻ 4-5 tuổi
Trẻ ờ tuổi này đã thể hiện tính độc lập. Trẻ đặt ra các câu hỏi như: Vì sao? Thế nào?... Trong tư duy trẻ bất đầu nắm được mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng. Trẻ có thể xác định được các âm thanh cao, thấp, to nhỏ. Âm sắc (tiếng hát của bạn hoặc tiếng đàn). Biết phân biệt tính chất âm nhạc: Vui vẻ, sôi nổi, Êm dịu, nhịp độ nhanh hay chậm... Trẻ hiểu được yêu cầu của bài hát, sự phối hợp động tác trong khi múa. Ở độ tuổi này, giọng trẻ đã âm vang (tuy chưa lớn) và linh hoạt hơn. Âm vục giọng đã ổn định trong khoảng quãng 6 (RÊ - XI). Khả năng phối hợp giữa nghe và hát cũng ổn định hơn. Hứng thú với từng dạng hoạt động âm nhạc ờ từng trẻ, khả năng thể hiện sự phân hoá rõ rệt, trẻ thích hát trẻ thích múa, trẻ thích chơi các dụng cụ âm nhạc...
Trẻ 5-6 tuổi
Đây là giai đoạn chuẩn bị cho trẻ vào trường tiểu học. Trẻ có khả năng tri giác toàn vẹn hình tượng âm nhạc. cảm giác tai nghe và kinh nghiệm nghe nhạc của trẻ cũng tích luỹ được nhiều hơn. Trẻ có thể phân biệt độ cao, thấp, của âm thanh giai điệu đi lên hay đi xuống, độ to, nhỏ, thậm chí cả sự thay đối cường độ âm thanh (mạnh hay yếu) âm sắc cửa một sổ nhạc cụ, giọng hát. Giọng hát đã vang hơn, âm sắc ổn định, tầm cữ giọng cũng mở rộng, trong khoảng quãng (Đô 1 - Đô 2). Sự phối hợp giữa tai nghe và giọng hát cũng tốt hơn.
* Đặc điểm hoạt động âm nhạc của trẻ mầm non
Trẻ 3-4 tuổi
Trẻ đã có những cảm xúc âm nhạc và có những biểu hiện bên ngoài như: ngạc nhiên, thích thú, vẫy tay,... Trẻ có khả nâng phân biệt và nhắc lại những giai điệu đơn giản. Tuy nhiên những cảm xúc và hứng thú âm nhạc đó vẫn chưa ổn định, nhanh chóng xuất hiện và cũng mất đi ngay.
Trẻ 4-5 tuổi
Trẻ có những biểu hiện ổn định về mặt cảm xúc, đôi khi biết hưởng ứng vui vẻ, mạnh mẽ với giai điệu mang tính chất vui vẻ, rộn rã.
Bước đầu trẻ đã có những biểu hiện quan tâm tới nội dung bài hát với những câu hỏi “Nói về cái gì?", “về ai?".
Trẻ có biểu hiện về trí nhớ âm nhạc, bước đầu nắm được những ấn tượng về tác phẩm âm nhạc,
Trẻ 5-6 tuổi
Sự chú ý của trẻ cao hơn và kéo dài. Trẻ biết tập trung nghe âm nhạc. Trẻ có khả năng cảm nhận trạng thái chung của âm nhạc, theo dõi sự phát triển của hình tượng âm nhạc. Trẻ biết thể hiện nhu cầu đối với âm nhạc và có ý thức hơn, biết xác định được tính chất âm nhạc vui, buồn, âm thanh cao, thấp, to, nhỏ, nhanh, chậm.
Các vận động cơ bản đã hoàn thiện hơn, đặc biệt khả năng vận động của các cơ lớn. Trẻ biết phối hợp động tác tay, chân, thân mình biết múa cùng bạn, múa với các đội hình đơn giản, các động tác phong phú hơn.
* Mục tiêu giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ nhà trẻ : nằm trong mục tiêu giáo dục phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội và thẩm mĩ, đó là: Thích nghe hát, hát và vận động theo nhạc; thích vẽ, xé dán, xếp hình...
* Mục tiêu giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo:
+ Có khả nàng cảm nhận vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và trong các tác phẩm nghệ thuật.
+ Có khả nàng thể hiện cảm xúc, sáng tạo trong các hoạt động âm nhạc, tạo hình.
+ Yêu thích, hào hứng tham gia vào các hoạt động nghệ thuật
Kết quả mong đợi về sự phát triển thẩm mĩ ở trẻ nhà trẻ.
Kết quả mong đợi
12 - 24 tháng tuổi
24 - 36 tháng tuổi
Thể hiện cảm xúc qua hát, vận động theo nhạc/to nhỏ, vẽ nặn; xếp hình, xem tranh
- Thích nghe hát và vận động theo nhạc dậm chân, lắc lư, vỗ tay).
- Biết hát và vận động đơn giản theo một vài bài hát/ bản nhạc quen thuộc
- Thích vẽ, xem tranh
- Thích từ mẫu, vẽ, nặn, xé, xếp hình, xem tranh cầm bút di màu, vẽ nguệch ngoạc).
Kết quả mong đợi về thẩm mĩ ở trẻ mẫu giáo.
Kết quả mong đợi
3-4 tuổi
4-5 tuổi
5-6 tuổi
Cảm nhận và thể hiện cảm xúc trước vẻ đẹp cửa thiên nhiên, cuộc sống và các tác phẩm nghệ thuật (âm nhạc, tạo hình)
- Vui sướng, vỗ tay, nói lên cảm nhận của minh khi nghe các âm thanh gợi cảm và ngắm nhìn vẻ đẹp nổi bật của các sự vật, hiện tượng.
- Vui sướng, vỗ tay, làm động tác mô phỏng và sử dụng các từ gợi cảm nói lên cảm xúc của mình khi nghe các âm thanh gợi cảm và ngắm nhìn vẻ đẹp của các sự vật, hiện tượng.
- Tán thưởng, khám phá, bát chước âm thanh, dáng điệu và sử dụng các từ gợi cám nồi lên cám xúc của mình khi nghe các âm thanh gợi cảm và ngắm nhìn vẻ đẹp của các sự vật, hiện tượng.
- Chú ý nghe, tỏ ra thích được hát theo, vỗ tay, nhún nhảy, lắc lư theo bài hát, bản nhạc.
- Chú ý nghe, tỏ ra thích được hát theo, vỗ tay, nhún nhảy, lấc lư theo bài hát, bản nhạc.
- Chăm chú lắng nghe và hưởng ứng cám xúc (hát theo, nhún nhảy, lắc lư, thể hiện động tác minh họa phù hợp) theo bài hát, bản nhạc.
- Vui sướng, chỉ, ngắm nhìn và nói lên cảm nhận của mình trước vẻ đẹp nổi bật (về màu sắc, hình dáng,..) của các tác phẩn tạo hình.
- Thích thú, ngắm nhìn và sử dụng các từ gợi cảm nói lên cám nhận của mình (về màu sắc, hình dáng...) của các tác phẩm tạo hình.
- Thích thú, ngắm nhìn và sử dụng các từ gợi cảm nói lên cảm xúc của mình (về màu sắc, hình dáng, bố cục...) của các tác phẩm tạo hình.
Một số kĩ năng trong hoạt động âm nhạc (hát, vận động theo nhạc) và hoạt động tạo hình (vẽ, nặn, xé dán, xếp hình).
- Hát tự nhiên, hát được theo giai điệu bài hát quen thuộc.
- Hát đúng giai điệu, lời ca, hát rõ lời và thể hiện sắc thái của bài hát qua giọng hát, nét mặt, điệu bộ...
- Hát đúng giai điệu, lời ca, hát diễn cảm phù hợp với sắc thái, tình cảm của bài hát qua giọng hát, nét mặt, điệu bộ, cử chỉ...
- Vận động theo nhịp điệu bài hát, bản nhạc (vỗ tay theo phách, nhịp, vận động minh họa).
- Vận động nhịp nhàng theo nhịp điệu các bài hát, bản nhạc với các hình thức (vỗ tay theo nhịp, tiết tấu, múa).
- Vận động nhịp nhàng phù hợp với sắc thái, nhịp điệu bài hát, bản nhạc với các hình thức (vỗ tay theo các loại tiết tấu, múa).
- Sử dụng các nguyên vật liệu tạo hình dể tạo ra sản phẩm theo sự
- Phối hợp các nguyên vật liệu tạo hình để tạo ra sản phẩm.
- Phối hợp và lựa chọn các nguyên vật liệu tạo hình, vật liệu thiên nhiên để tạo ra sản phẩm.
- Vẽ các nét thẳng, xiên, ngang, tạo thành bức tranh đơn giản.
- Vẽ phối hợp các nét thẳng, xiên ngang, cong tròn tạo thành bức tranh có màu sắc và bố cục.
- Phối hợp các kĩ năng vẽ để tạo thành bức tranh có màu sắc hài hòa, bố cục cân đối.
2.5. Xé theo dải, xé vụn và dán thành các sản phẩm
- Xé, cắt theo đường thẳng, đường ngang... và dán thành sản phẩm
- Phối hợp các kĩ năng cắt, xé dán để tạo thành
- Lăn dọc, xoay tròn, ấn dẹt đất nặn để tạo thành các sản phần có 1 khối hoặc 2 khối.
- Làm lõm, vo bẹt, bè loe, vuốt nhọn, uổn cong đất nặn để nặn thành sản phẩm cồ nhiều chi tiết.
- Phối hợp các kĩ năng nặn để tạo thánh sán phẩm có bố cục cân đối.
- Xếp chồng, xếp cạnh, xếp cách tạo thánh các sản phẩm có cẩu trúc đơn giản.
- Phối hợp các kĩ năng xếp hình để tạo thành các sản phẩm cồ kiểu dáng, màu sắc khác nhau.
- Phối hợp các kĩ năng xếp hình để tạo thành các sản phẩm cồ kiểu dáng, màu sắc hài hòa, bố cục cân đối.
- Nhận xét các sản phẩm tạo hình.
- Nhận xét các sản phẩm tạo hình vẽ màu sắc, đường nét, hình dáng.
- Nhận xét các sản phẩn tạo hình về màu sắc, hình dáng, bố cục.
Thể hiện sự sáng tạo khi tham gia các hoạt động nghệ thuật (âm nhạc, tạo hình).
- Vận động theo ý thích các bài hát, bản nhạc quen thuộc.
- Lựa chọn và tự thể hiện hình thức vận động theo bài hát, bản nhạc.
- Tự nghĩ ra các hình thức để tạo ra âm thanh, vận động, hát theo các bản nhạc, bài hát yêu thích.
- Tạo ra các sản phẩm tạo hình theo ý thích.
- Lựa chọn dụng cụ để gõ đệm theo nhịp điệu, tiết tấu bài hát
- Gõ đệm bằng dụng cụ theo tiết tấu tự chọn.
- Đặt tên cho sản phẩn tạo hình.
- Nói lên ý tưởng và tạo ra các sản phẩm tạo hình theo ý thích.
- Nói lên ý tưởng và tạo ra các sản phẩm tạo hình theo ý thích.
- Đặt tên cho sản phần tạo hình
- Đặt tên cho sản phẩn tạo hình
2. Quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm trong phát triển thẩm mỹ cho trẻ em.
Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch của nhà giáo dục đến trẻ, nhằm giúp trẻ biết nhận ra cái đẹp, có hứng thú, yêu thích cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp trong sinh hoạt và hoạt động cá nhân.
Giáo dục thẩm mỹ mà trung tâm là giáo dục cái đẹp và đưa cái đẹp vào trong đời sống một cách sáng tạo, là một nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục nhân cách phát triển toàn diện.
Tuổi thơ luôn nhìn thế giới bằng cặp mắt trong sáng, tất cả đối với trẻ dường như rực rỡ hơn, mặt trời chói lọi hơn, chị "Hằng Nga" huyền bí hơn, bông hoa rực rỡ, dòng sông tung sóng, cơn giông ập đến v.v... chúng bộc lộ xúc cảm thẩm mỹ thật hồn nhiên và trong trẻo. Lứa tuổi này tiếp nhận và hình thành năng lực sáng tạo thẩm mỹ ban đầu rất cần thiết cho việc hình thành tài năng sáng tạo về sau.
Để xây dựng cơ sở ban đầu cho giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện, giáo dục mầm non cần phải được tiến hành một cách tổng hợp và đồng bộ các mặt sau đây:
- Giáo dục thể chất
- Giáo dục trí tuệ
- Giáo dục đạo đức
- Giáo dục thẩm mĩ
- Giáo dục lao động.
Giáo dục thẩm mỹ có mối liên hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, giáo dục trí tuệ, lao động và thể chất. Những cảm xúc thẩm mỹ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người và làm cho tình cảm con người thêm cao thượng. Những mặt giáo dục trên đây gắn bó, bổ sung cho nhau trong quá trình hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, do đặc điểm tăng trưởng và phát triển của trẻ ở mỗi thời kì khác nhau là khác nhau, nên cần phải xác định được các nhiệm vụ nội dung, phương pháp, biện pháp… chăm sóc và giáo dục phù hợp với đặc điểm tăng trưởng và phát triển của từng thời kì.
3. Hướng dẫn tổ chức hoạt động phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.
- Phân tích được cơ sở lý luận của giáo dục phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.
Giáo dục thẩm mỹ trong những nội dung quan trọng của giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ, và là việc cần phải tiến hành một cách nghiêm túc từ tuổi mẫu giáo. Có thể coi trẻ mẫu giáo là thời kỳ “hoàng kim” của giáo dục thẩm mỹ. Ở lứa tuổi này, tâm hồn trẻ rất nhạy cảm dễ xúc động đối với con người và cảnh vật xung quanh, trí tưởng tượng của trẻ bay bổng và phong phú. Do vậy, năng khiếu nghệ thuật và cũng thường được nảy sinh từ lứa tuổi này.
Khi nó đến giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo, ta thường coi đó là nhiệm vụ của trường mầm non với các “tiết học” tạo hình, múa hát, đóng kịch… mà hầu như ít người chú ý đến một trong những nhà giáo dục chủ yếu nhất và tuyệt vời nhất – đó chính là gia đình. Sự cảm nhận đầu tiên , rực rỡ nhất, ấn tượng nhất về vẻ đẹp được bắt nguồn từ thẩm mỹ của cha mẹ từ mối quan hệ giao tiếp - ứng xử tốt đẹp trong gia đình, đây là điều kiện quan trọng nhất để giáo dục thẩm mỹ cho trẻ.
- Vận dụng kiến thức được trang bị vào đánh giá thực trạng và phát hiện các hạn chế trong tổ chức hoạt động phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ em làm trung tâm.
Trẻ em là tương lai của đất nước, sự phồn vinh của đất nước mai sau phụ thuộc vào tất cả những gì chúng ta giành cho trẻ ngày hôm nay.
Giáo dục toàn diện cho trẻ mầm non thì giáo dục thẩm mỹ chiếm vị trí quan trọng không thể thiếu. Chân - Thiện - Mỹ là chị em sinh ba trên bước đương hoàn thiện nhân cách cho trẻ.
Nói đến giáo dục thẩm mỹ ta liên tưởng ngay đến bản sắc dân tộc, đến thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, Giáo dục thẩm mỹ thực chất là hình thành chủ thể thẩm mỹ, để trở thành chủ thể thẩm mỹ đòi hỏi phải có thời gian và một quá trình giáo dục.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây giáo dục thẩm mỹ trong trường mầm non đã có những chuyển biến tích cực, đã có sự phối kết hợp của các ban ngành đoàn thể trong xã hội, quan tâm thực hiện triển khai các chuyên đề tạo hình, lồng ghép nội dung giáo dục thẩm mỹ phù hợp trong các tiết dạy: vẽ, nặn, xé, dán cho trẻ mầm non. Hàng năm, nhà trường tổ chức cho thi giáo viên giỏi, hướng dẫn chỉ đạo tốt hội thi: “bé khoẻ, bé ngoan”, “bé khéo tay” cho các cháu mẫu giáo. Đó là những việc làm tích cực mà ngành học đã đạt được.
Bên cạnh đó, ngành giáo dục mầm non còn gặp những khó khăn tồn tại như sau:
- Nhận thức của giáo viên còn hạn chế, chưa thấy rõ được vai trò trách nhiệm của mình trong việc giáo dục trẻ.
- Trong giảng dạy chưa linh hoạt vận dụng phương pháp, biện pháp phù hợp, bài dạy còn đơn điệu ít sáng tạo, chủ yếu tập trung vào một số môn học chữ cái và toán. Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành học dấn đến kết quả về mặt giáo dục thẩm mỹ còn hạn chế.
- Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động phát triển thẩm mỹ theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm trong nhóm, lớp tại cơ sở GDMN.
Khái niệm và thuật ngữ “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” và “các phương pháp dạy nghệ thuật” có những điểm giống nhau và khác nhau. Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ không chỉ nhằm hình thành thái độ thẩm mĩ đối với thế giới tự nhiên, xã hội, đối tượng thẩm mĩ mà còn đối với cả quá trình dạy nghệ thuật. Khái niệm “các phương pháp giáo dục thẩm mĩ” rộng hơn và bao hàm trong nó cả phương pháp dạy nghệ thuật.
Có thể coi các phương pháp giáo dục thẩm mĩ và dạy nghệ thuật là những cách thức hành động chung của giáo viên và trẻ em nhằm giúp cho trẻ nắm được kinh nghiệm hoạt động thẩm mĩ, nhằm hình thành những phương thức hành động và phát triển năng lực nghệ thuật ở chúng.
Các phương pháp giáo dục thẩm mĩ có mối liên hệ với các nhiệm vụ và bản chất của giáo dục thẩm mĩ. Những phương pháp giáo dục thẩm mĩ nhằm kích thích trẻ tích cực suy nghĩ, cảm xúc, tưởng tượng và hoạt động.
Hệ thống phương pháp phổ biến được phân loại trên cơ sở nguồn cung cấp tri thức, bao gồm:
– Nhóm các phương pháp dùng lời: giải thích, trò chuyện, chỉ dẫn, đọc kể…
- Nhóm các phương pháp trực quan: quan sát, sử dụng các đồ dùng trực quan.
- Nhóm các phương pháp thực hành (hay thực tiễn) luyện tập.
- Nhóm các phương pháp dùng trò chơi.
Các phương pháp này được sử dụng trong sự phối hợp thống nhất với nhau. Trước hết, cô cần tổ chức cho trẻ quan sát vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên, như quan sát một vườn hoa, cảnh hoàng hôn đầy màu sắc, khung cảnh một ngày lễ, hay những tác phẩm nghệ thuật (bức tranh vẽ, bức tượng gỗ…) kết hợp với ngôn ngữ nghệ thuật trong kể chuyện, chỉ dẫn, giải thích… làm tăng khả năng cảm thụ thẩm mĩ và làm cho trẻ nhận ra cái đẹp và yêu thích cái đẹp trong cuộc sống, trong thiên nhiên và trong các tác phẩm nghệ thuật.
Những cảm xúc thẩm mĩ trở nên sâu sắc và giữ được lâu hơn nếu như trẻ hiểu rõ nội dung đối tượng (một bài hát, một câu chuyện cổ tích, một bức tranh, một bông hoa đẹp, một áng mây trôi,…). Do đó, cô giáo cần giải thích nội dung tác phẩm đang được tiếp thu, làm chính xác các biểu tượng của các em. Việc trình bày một cách nghệ thuật những tác phẩm âm nhạc, những ca khúc; việc đọc các tác phẩm văn học nghệ thuật tác động trực tiếp đến trẻ, khêu gợi tình cảm và cảm xúc thẩm mĩ, giúp các em hiểu sâu sắc hơn nội dung và hình thức tác phẩm.
Khi sử dụng phương pháp trò chuyện, bằng những câu hỏi của mình, cô giáo làm cho trẻ lưu ý, suy nghĩ về những điểm chủ yếu (ví như các tuyến hành động và các nhân vật), tìm hiểu và tổ chức kinh nghiệm của trẻ, làm sâu sắc những cảm xúc thẩm mĩ của trẻ. Trong khi trò chuyện, tập cho trẻ nói lên những ấn tượng của mình, bày tỏ thái độ của mình đối với tác phẩm và các hiện tượng trong cuộc sống. Khi trò chuyện phải dùng từ kích thích cảm xúc thẩm mĩ của trẻ đối với tác phẩm nghệ thuật.
Khi trẻ dạy vẽ, nặn, hát, múa, cô không chỉ hướng dẫn trẻ cách làm mà cần tổ chức cho trẻ thực hành nhằm hình thành những kỹ năng nhất định. Bởi vậy, giáo viên cần vận dụng phương pháp luyện tập. Để trẻ hiểu biết các thao tác, cách biểu hiện, cách sử dụng các đồ dùng học tập (bút chì, bút lông, màu vẽ v.v…) cô cần dùng các biện pháp chỉ dẫn, làm mẫu…
Trong giáo dục thẩm mĩ cũng cần dùng phương pháp tập luyện hành động có thể gọi đó là những hành động thẩm mĩ. Ở trẻ có những hành động với ý thức muốn làm cho hoàn cảnh sống xung quanh đẹp hơn, tức là trẻ muốn biến đổi nó theo sức mình và bằng cách đó làm cho bạn bè và người lớn vui thích. Cần giúp trẻ tập luyện hành động thông qua các bài tập khác nhau. Tập luyện đòi hỏi phải có sự lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng khác với việc tập luyện những thói quen trong sinh hoạt, việc tập luyện những hành động thẩm mĩ không theo một trình tự chặt chẽ, ví như, trẻ có thể dùng sỏi đá, những tấm bìa nhỏ, những mảnh nhựa màu để xếp thành một hình gì đó (một con thuyền, một ngôi nhà chẳng hạn…). Vì vậy, rất cần giáo dục và phát triển năng lực hành động trong những hoàn cảnh có vấn đề, năng lực vận dụng những kĩ năng đã nắm được.
Trong giáo dục thẩm mĩ, hoạt động chủ yếu của trẻ là hoạt động nghệ thuật. Điều quan trọng là cho trẻ tiếp xúc với những phương thức hoạt động nghệ thuật khái quát nhất, điển hình nhất, tức là những phương thức cần thiết cho mọi biến thể của các loại hình nghệ thuật. Những phương thức chung đó là: những phương thức định hướng về âm thanh, màu sắc, hình dạng, vận động, những phương thức định hướng trong toàn bộ những phương tiện thể hiện của mỗi loại hình nghệ thuật (cảm giác), các phương thức tiếp xúc với nội dung tư tưởng, tình cảm của các tác phẩm và cùng xúc cảm với các nhân vật (hình tượng nghệ thuật), sự kết hợp những phương thức tổng thể và phân tích.
Về phương diện cảm thụ thẩm mĩ, sự khác biệt cá nhân rất lớn và bộc lộ ngay từ lứa tuổi mẫu giáo. I. P. Páplốp có nói đến hai kiểu người cơ bản, căn cứ vào kiểu hoạt động thần kinh của họ, đó là kiểu nghệ sĩ cảm thụ thế giới bên ngoài một cách mãnh liệt, trực tiếp và chủ yếu dựa vào hệ thống tín hiệu thứ nhất; kiểu người trí tuệ nặng về hoạt động phân tích dựa vào hệ thống tín hiệu thứ hai, dựa vào từ, vào sự phân tích và khái quát các hiện tượng. Bởi vậy, phương pháp giáo dục thẩm mĩ phải được xác định tuỳ theo đặc điểm lứa tuổi và cá nhân của trẻ.
Mặt khác, quan điểm tổng hợp đòi hỏi phải thiết lập mối quan hệ qua lại giữa các phương pháp và biện pháp giáo dục thẩm mĩ, có tính đến nhữ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét