Tiếng Việt tại Hoa Kỳ
Tiếng Việt tại Hoa Kỳ | |
---|---|
Tiếng Việt Nam tại Hoa Kỳ | |
Sử dụng tại | Hoa Kỳ |
Tổng số người nói | 1.559.855 |
Phân loại | Ngữ hệ Nam Á
|
Hệ chữ viết | Latinh (Quốc ngữ) |
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-1 | vi |
ISO 639-2 | vie[1] |
IETF | vi-US |
Glottolog | Không có |
![]() Phân bố tiếng Việt tại Hoa Kỳ theo Điều tra dân số năm 2000. |
Tiếng Việt có hơn 1,5 triệu người sử dụng tại Hoa Kỳ và là ngôn ngữ phổ biến thứ sáu tại quốc gia này. Hoa Kỳ cũng là lãnh thổ có số lượng người nói tiếng Việt đứng thứ hai thế giới, chỉ sau Việt Nam. Tiếng Việt bắt đầu trở nên phổ biến sau năm 1975 khi có nhiều người tị nạn từ Việt Nam nhập cư sang Mỹ. Tiếng Việt được sử dụng trong nhiều khía cạnh cuộc sống, kể cả truyền thông, thương mại, và hành chính. Tại một số tiểu bang, đây là ngôn ngữ phổ biến thứ ba sau tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Để duy trì tiếng Việt trong các thế hệ sau, cộng đồng người sử dụng tiếng Việt đã thành lập nhiều trung tâm Việt ngữ cũng như phối hợp với các trường học công cộng để dạy tiếng Việt cho học sinh, sinh viên thuộc thế hệ sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ.
Qua nhiều thập niên phát triển độc lập trong môi trường đa ngôn ngữ, tiếng Việt tại Hoa Kỳ có một số điểm khác so với tiếng Việt phổ biến tại Việt Nam, và cộng đồng người dùng tiếng Việt cố gắng duy trì sự khác biệt đó một cách có chủ đích.
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Số dân |
---|---|
1970 | 3.000 |
1980 | 197.588 |
1990 | 507.069 |
2000 | 1.009.627 |
2010 | 1.427.194 |
2019 | 1.559.855 |
Nguồn: [2][3][4][5] |
Tiếng Việt tại Hoa Kỳ có lịch sử khá ngắn và gắn liền với sự hiện diện của người Việt tại đất nước này. Trước Thế chiến thứ hai, các ngôn ngữ Đông Nam Á dường như chưa được biết đến tại Hoa Kỳ. Lúc đó Đông Dương còn là thuộc địa của Pháp, nên tiếng Việt được chủ yếu các học giả Pháp nghiên cứu.[6] Đến thập niên 1950, các trường đại học như Cornell, Columbia, Yale, và Georgetown, cũng như Viện Dịch vụ Đối ngoại của Bộ Ngoại giao, đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy. Năm 1954, Trường Ngôn ngữ Lục quân (sau này đổi tên thành Học viện Ngôn ngữ Quốc phòng) bắt đầu giảng dạy tiếng Việt trong quân đội.[7]
Năm 1969, toàn bộ Hoa Kỳ chỉ có khoảng 3.000 người Việt, trong đó có vợ của các quân nhân từng phục vụ tại Việt Nam. Khi tình hình chiến tranh tại Việt Nam càng xấu đi, con số người Việt tăng dần. Đầu thập niên 1970 có khoảng 15.000 người Việt và đến đầu năm 1975 con số này đã tăng đến 30.000. Sau Chiến dịch Cuộc sống mới, số người Việt tại Hoa Kỳ tăng vọt.[8]
Năm 1978, nhật báo Việt ngữ đầu tiên tại Hoa Kỳ, tờ Người Việt, bắt đầu xuất bản tại Quận Cam, California. Tờ báo góp phần đưa tin tức về quê nhà cho cộng đồng người tị nạn, cũng như chuẩn bị họ cho cuộc sống mới tại Hoa Kỳ.[9]
Từ năm 1980, tiếng Việt có khoảng 200.000 người sử dụng và là ngôn ngữ phổ biến thứ 14 tại Mỹ. Từ 1980 đến 2010, tiếng Việt là ngôn ngữ phát triển nhanh nhất tại Hoa Kỳ, tăng gấp 7 lần.[10] Đến năm 2010, tiếng Việt đã vượt qua nhiều ngôn ngữ khác để đứng vị trí thứ 6 (sau tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Trung, tiếng Pháp, và tiếng Tagalog).[11]
Đầu thế kỷ 21, tiếng Việt bắt đầu có dấu hiệu mai một trong các thế hệ sau, sinh ra và lớn lên tại nước Mỹ và ít có mối quan hệ với Việt Nam. Tiếng Việt được tiếp tục duy trì trong những người mới nhập cư trong khi hơn 90% người Việt thế hệ ba ở Mỹ chỉ nói tiếng Anh. Tuy nhiên, chỉ 20% người Mỹ gốc Việt ở thế hệ thứ hai hoàn toàn sử dụng tiếng Anh, so với 46,8% trong thế hệ thứ nhất, cho thấy có một số nỗ lực để duy trì tiếng Việt trong cộng đồng.[12] Ngoài ra, người Việt tại Hoa Kỳ cũng cố gắng đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy tại trường công để con em họ không quên ngôn ngữ của tổ tiên.[13][14]
Nhân khẩu[sửa | sửa mã nguồn]
Nơi sinh và phân bố[sửa | sửa mã nguồn]
Nơi sinh | 1980 | 1990 | 2000 | 2010 | 2019 |
---|---|---|---|---|---|
Việt Nam | 87,4 | 82,0 | 79,7 | 74,3 | 71,4 |
Hoa Kỳ | 7,0 | 13,3 | 17,1 | 22,7 | 23,5 |
Khác | 5,5 | 4,7 | 3,2 | 2,9 | 5,0 |
Người dùng tiếng Việt chủ yếu là người gốc Việt, do đó tiếng Việt phát triển mạnh nhất tại những nơi đông người Mỹ gốc Việt nhất. Theo ước tính năm 2019, khoảng 71,4% người sử dụng tiếng Việt sinh ra tại Việt Nam, 23,5% sinh ra tại Hoa Kỳ hoặc lãnh thổ Hoa Kỳ, còn lại 5% sinh ra tại các quốc gia khác.[5]
Tại bốn tiểu bang (Nebraska, Oklahoma, Texas, Washington), tiếng Việt là ngôn ngữ phổ biến thứ ba, sau tiếng Anh và Tây Ban Nha.[15] Tiếng Việt hiện diện mạnh ở Bờ Tây, với khoảng 40% người sử dụng tại California, còn Washington có số người nói tiếng Việt đứng thứ ba. Tại các thành phố lớn, tỷ lệ người Việt khá khiêm tốn; họ hiện diện đông hơn trong các vùng đô thị ngoại ô thay vì trong nội thành.[8]
Trình độ ngôn ngữ[sửa | sửa mã nguồn]
Thế hệ | Định nghĩa | % 1980[16] | % 2006[16] | % 2019[17] |
---|---|---|---|---|
1 | Sinh ra ở nước ngoài | 95 | 77 | 60 |
2 | Sinh ra ở Mỹ | 3 | 19 | 40 |
3 | Sinh ra ở Mỹ và có cha hoặc mẹ sinh ra tại Mỹ | 2 | 4 |
Trình độ tiếng Việt của người Việt tại Mỹ cũng được phân chia theo thế hệ. Thế hệ thứ nhất được định nghĩa là người sinh ra ở nước ngoài (chủ yếu là Việt Nam), thế hệ thứ hai là người sinh ra ở Mỹ, còn thế hệ thứ ba là những người sinh ra và đồng thời có cha hoặc mẹ sinh ra ở Mỹ. Năm 1980, 95% người Việt ở đây là người thuộc thế hệ thứ nhất, 3% thuộc thế hệ thứ hai, và 2% thuộc thế hệ thứ ba. Đến năm 2006, thế hệ thứ nhất chỉ còn 77% trong khi thế hệ thứ hai tăng lên 19%, và thế hệ thứ ba vẫn còn là con số nhỏ ở 4%.[16] Theo ước tính của Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, đến năm 2019 tỷ lệ người gốc Việt sinh ra ở nước ngoài giảm xuống còn 60,3% và tỷ lệ người sinh ra ở Mỹ đã tăng lên đến 39,7%. Trong số người Mỹ gốc Việt 5 tuổi trở lên, 22,3% chỉ sử dụng tiếng Anh tại nhà, còn lại 77,7% sử dụng ngôn ngữ khác (chủ yếu là tiếng Việt) — trong số đó 44,0% không có trình độ tiếng Anh tốt.[17]
Khả năng ngôn ngữ | Thế hệ 1 | Thế hệ 2 | Thế hệ 3 | Tổng | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Vị thành niên | Tổng thể | Vị thành niên | Tổng thể | Vị thành niên | Tổng thể | Vị thành niên | Tổng thể | |
Chỉ tiếng Việt | 1,1 | 7,1 | 0,3 | 0,2 | 0 | 0 | 0,5 | 5,5 |
Tiếng Anh không tốt (not well) | 6,5 | 28,7 | 6,0 | 5,9 | 0,2 | 0,2 | 5,5 | 23,3 |
Tiếng Anh tốt (well) | 18,7 | 32,2 | 15,5 | 14,9 | 2,4 | 2,4 | 15,0 | 27,7 |
Tiếng Anh rất tốt (very well) | 26,9 | 25,7 | 58,3 | 60,8 | 6,0 | 7,1 | 41,5 | 31,6 |
Chỉ tiếng Anh | 46,8 | 6,4 | 19,9 | 18,1 | 91,3 | 90,2 | 37,5 | 11,8 |
Nghiên cứu năm 1998 của Min Zhou và Carl Bankston cho thấy tiếng Việt được duy trì khi được sử dụng tại nhà và cộng đồng. Từ năm 1980 đến 2006, tỷ lệ người gốc Việt không sử dụng tiếng Việt tại nhà (chỉ tiếng Anh) chỉ tăng không đáng kể (từ 9,4% đến 11,8%), trong khi tỷ lệ người có trình độ tiếng Anh rất tốt và cũng có thể nói tiếng Việt lại tăng đáng kể (từ 20,6% đến 31,6%). Người Mỹ gốc Việt có dấu hiệu tiến triển theo như các nghiên cứu về ngôn ngữ của người nhập cư — duy trì ngôn ngữ mẹ đẻ đồng thời phát triển các kỹ năng song ngữ.[12]
Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu tiếng Việt đã nhường chỗ cho tiếng Anh trong giới trẻ vị thành niên (dưới 21 tuổi). Trong thế hệ thứ nhất và thứ hai, khoảng 46,8% và 19,9% không còn sử dụng tiếng Việt, còn thế hệ thứ ba, tuy chỉ chiếm một thành phần rất nhỏ, hơn 90% đã sử dụng tiếng Anh hoàn toàn.[12]
Sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]
Tuy tiếng Việt không được nhiều người Mỹ biết đến bằng tiếng Tây Ban Nha hay một số ngôn ngữ châu Âu khác, ngôn ngữ này vẫn hiện diện trong nhiều khía cạnh cuộc sống. Trong truyền thông và nghệ thuật sáng tạo, tiếng Việt được sử dụng chủ yếu trong cộng đồng người Việt. Trong lĩnh vực thương mại và hành chính, tiếng Việt cũng có sự hiện diện, tuy còn khiêm tốn. Hầu hết các nha lộ vận cung cấp người dân cẩm nang hướng dẫn lái xe bằng tiếng Việt, và một số tiểu bang cho phép thi một phần bằng tiếng Việt. Môn tiếng Việt còn là học phần tự chọn ở nhiều trường đại học, nhưng lại ít được dạy tại các trường trung học.[16]
Truyền thông[sửa | sửa mã nguồn]
Hầu hết các báo chí Việt ngữ hiện diện trong những khu vực đô thị đông người Việt nhất. Dù còn nhỏ so với tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, các tờ báo, đài truyền thanh, truyền hình tiếng Việt đã phát triển mạnh tại Hoa Kỳ.
Được xuất bản từ cuối thập niên 1970, tờ báo Người Việt ở miền Nam California là tờ báo Việt ngữ lâu đời nhất tại Mỹ. Từ năm 1999 đến 2005, tờ San Jose Mercury News xuất bản một ấn bản tiếng Việt với tên gọi Việt Mercury.[18] Sau khi tờ Việt Mercury đình bản, có hai tờ báo khác thay thế ở miền Bắc California là Việt Tribune và VTimes.[18][19] Ban đầu, các báo chú trọng vào việc cung cấp tin tức địa phương cho người gốc Việt, sau phát hành thêm nhiều ấn phẩm cho các đối tượng độc giả khác. Tờ Người Việtcó hẳn một bản tiếng Anh dành cho các thế hệ người Việt sinh ra tại Hoa Kỳ. Ngoài các xuất bản phẩm này, nay nhiều ấn phẩm trong cộng đồng người Việt cũng được phát hành bằng nhiều ngôn ngữ khác bên cạnh tiếng Việt.[18]
Trên radio, có hai đài truyền thanh phát sóng tiếng Việt tại Vùng Đại Los Angeles (KALI-FM và KVNR).[20] Đài Little Saigon Radio được thành lập từ năm 1993, có hệ thống phát thanh tại ba nơi có đông người Việt sinh sống là miền Nam California, San Jose, và Houston. Ngoài các chương trình sản xuất tại địa phương, đài còn tiếp vận các chương trình thời sự VIệt ngữ của các đài phát thanh quốc tế như BBC và RFI.[21] Chương trình của đài Radio Saigon Houston được cho là đã góp phần thu hút nhiều người Việt từ California qua Houston định cư sau khi họ nghe được về cuộc sống ở Houston qua các chương trình của đài được tiếp vận tại California.[22]
Các đài truyền hình tiếng Việt gồm có đài Saigon Broadcasting Television Network (SBTN) có trụ sở tại Garden Grove, là đài truyền hình đầu tiên phát sóng 24/24 trên các hệ thống truyền hình cáp và vệ tinh khắp nước Mỹ kể từ năm 2002. SBTN thu hút khán giả từ mọi tầng lớp, với nhiều chương trình như thời sự, phim điện ảnh, kịch, phim tài liệu, ca múa nhạc, trò chuyện, và thiếu nhi.[20] Ngoài SBTN, còn có VietFace TV của Trung tâm Thúy Nga, cũng phát sóng miễn phí 24 tiếng mỗi ngày tại Quận Cam và toàn quốc qua hệ thống vệ tinh DirecTV;[23][20]và Vietnam America Television (VNA/TV) phục vụ các khu vực miền Nam Calfornia, San Jose, và Houston với lập trường chống Cộng và không sử dụng các chương trình xuất xứ từ Việt Nam.[24] Ngoài California, đài Viet-Nam Public Television (VPTV) có trụ sở tại Falls Church, Virginia phục vụ vùng Washington, DC. Một số địa phương cũng có chương trình tiếng Việt trong hệ thống truyền hình cộng đồng.[18] VTV4, kênh truyền hình đối ngoại của chính quyền Việt Nam, từng có thể bắt sóng được qua vệ tinh tại Hoa Kỳ, nhưng bị đánh giá là "nhàm chán"; đối tượng người xem chủ yếu là du học sinh hoặc người mới nhập cư.[25] VTV4 đã ngừng phát sóng qua vệ tinh từ năm 2018.[26]
Trong đại dịch COVID-19 và cuộc bầu cử tổng thống năm 2020, tin giả trở thành một vấn nạn trong cộng đồng người nói tiếng Việt, đặc biệt là với những người lớn tuổi không thông thạo tiếng Anh và không tiếp cận với truyền thông dòng chính.[27] Để đối phó với tin giả, nhiều người Việt trẻ tuổi thông thạo song ngữ đã thành lập các tổ chức nhằm phản bác tin giả và truyền đạt thông tin trung thực bằng tiếng Việt cho cộng đồng, trong đó có Viet Fact Check (Việt Kiểm Tin), VietCOVID.org, và The Intepreter (Người Thông Dịch).[28][29]
Văn học, nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Sau 1975, nhiều trí thức, nghệ sĩ, nhà văn từ miền Nam Việt Nam đã rời bỏ Việt Nam để đến Mỹ. Trong những năm đầu, các tác phẩm văn học Việt ngữ tại Hoa Kỳ xoay quanh các chủ đề hoài niệm về quá khứ, cảm giác tội lỗi đối với thân nhân còn mắc kẹt ở Việt Nam, và cảm tưởng tha hương nơi xứ người.[30] Những giá trị trong văn hóa Mỹ cũng bị các nhà văn gốc Việt chỉ trích như lối sống bon chen vật chất và các giá trị đạo đức xã hội.[31]Với sự hiện diện của những thuyền nhân từ năm 1977, văn học Việt ngữ tại Mỹ chuyển hướng đến sự đau thương và giận dữ; nhóm nhà văn mới này đã rời Việt Nam với mục đích tư tưởng rõ rệt: đi tìm tự do và kể cho thế giới biết đến một nước "Việt Nam đầy máu và nước mắt".[32] Không chỉ trong lĩnh vực văn học, lĩnh vực âm nhạc và nghệ thuật cũng đầy tiếng nói đau thương và dận dữ của các thuyền nhân. Hàng trăm tạp chí, sách báo với các bài viết và bài văn được xuất bản bằng tiếng Việt để báo động thế giới về tình cảnh của các thuyền nhân. Khác với những tác phẩm hoài niệm về quá khứ trước kia, các tác phẩm của thuyền nhân khắc họa Việt Nam là một đất nước u ám và là một địa ngục trần gian.[32]
Trong lĩnh vực âm nhạc, nghệ thuật, người Việt đã bắt đầu xây dựng hệ thống truyền thông, giải trí ngay từ những ngày đầu định cư trên đất Mỹ. Ban đầu các nghệ sĩ tị nạn này phân phối các băng đĩa ca nhạc với nội dung phản ánh cuộc sống tị nạn, chỉ trích mạnh mẽ chính quyền Cộng sản Việt Nam cùng với các nhịp điệu đưa thính giả về một thời bình. Khác với những người nhập cư từ các nước khác, người Việt tha hương không chấp nhận các văn hóa phẩm xuất xứ từ quê hương Việt Nam dưới chế độ cộng sản.[33] Ban đầu người Việt tại Mỹ xem các phim bộ Hồng Kông và Đài Loan được lồng tiếng để phục vụ nhu cầu giải trí. Bắt đầu từ thập niên 1980 và 1990, chương trình ca vũ nhạc Paris by Night của Trung tâm Thúy Nga đã trở thành một cầu nối giữa các cộng đồng người Việt trên thế giới.[33] Những tập đầu có các chủ đề liên quan đến trải nghiệm của người tha hương, như Giã Biệt Sài Gòn, Giọt Nước Mắt Cho Việt Nam, Nước Non Ngàn Dặm Ra Đi, với nội dung chống cộng làm nguyên tắc dẫn đường để thu hút khán giả.[34] Với thị hiếu khán giả sau này muốn hội nhập xã hội Hoa Kỳ, các chương trình sau này chuyển hướng, phản ánh các trào lưu văn hóa Mỹ đương thời, với các đề tài ít liên quan đến chính trị hơn.[34] Với sự thành công của Paris by Night, nhiều chương trình tương tự cũng đã nhanh chóng được đưa ra thị trường, như các video của Trung tâm Asia, Vân Sơn, và Hollywood Night.[33] Đến năm 2008, Little Saigon ở Quận Cam, California đã trở thành trung tâm sản xuất âm nhạc Việt lớn nhất thế giới, với thị trường lớn hơn cả Việt Nam gấp 10 lần.[35]
Các thể loại âm nhạc Việt Nam được biểu diễn tại Mỹ gồm có dân ca, cải lương, đơn ca tài tử, tân nhạc,... Vì hầu hết người Việt tại Hoa Kỳ đến từ miền Nam, những thể loại này thường có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam.[36]Các soạn giả người Việt đã tiếp tục viết nhiều vở cải lương mới, và nhiều gánh hát cải luơng lưu diễn khắp nước Mỹ. Tại các cộng đồng gốc Việt lớn mạnh, tân nhạc chiếm lĩnh thị trường sản xuất và tiêu thụ.[36]
Từ năm 1991, Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA, Vietnamese American Arts & Letters Association) hoạt động với mục đích hỗ trợ các nghệ sĩ gốc Đông Nam Á, đặc biệt chú trọng tới văn học và nghệ thuật Việt Nam. Từ năm 2003, hằng năm VAALA đều tổ chức Đại hội Điện ảnh Việt Nam quốc tế nhằm trình bày các tác phẩm điện ảnh của các nghệ sĩ gốc Việt hay về đề tài Việt Nam.[37]
Ngoài ra, một số nhà văn người Mỹ gốc Việt đã gặt hái thành công nhất định trong văn đàn Mỹ, chủ yếu với các tác phẩm tiếng Anh miêu tả trải nghiệm của người Việt trên đất Mỹ, trong đó có Nguyễn Thanh Việt, người đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu, nhà thơ Ocean Vương từng nhận "Giải thiên tài" MacArthur Fellowship, ký giả Andrew Lâm, nhà văn Phùng Thị Lệ Lý, và nhà văn kiêm họa sĩ Trung Le Nguyen. Dù sáng tác bằng tiếng Anh, các tác giả này đôi khi sử dụng nguyên văn từ vựng tiếng Việt, đồng thời nhấn mạnh ảnh hưởng của ngôn ngữ mẹ đẻ trong lối hành văn, diễn đạt trong các tác phẩm của mình.[38]
0 nhận xét:
Đăng nhận xét