SƯU TẬP NHỮNG KIẾN THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN ÂM NHẠC VIỆT NAM THỜI 4.0

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

Lý thuyết tâm lý học và việc ứng dụng trong dạy học

 


Khoa Sư phạm Kỹ thuật
Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM

Abstract:

Nowadays, together with the development of computer technology, education has walked a long step. The number of educational softwares increases day by day very quickly. However, usually the designers are computer experts and do not know much about education, especially what is happening in the learners’ head. With or without the assistance of the educational softwares, the knowledge acquiring processes of the students are the same. It should be applied learning or psychological theories in the flow of such softwares. This writing concerns with the psychological theory and its application in teaching which can be studied carefully before the creating phase in making educational softwares.

“Môn Tâm lý học khoa học sẽ không chỉ giúp ta hiểu rõ bản chất con người mà còn giúp ta trong công việc của mình”.

(Card và những tác giả khác - 1983).

1.
 Đặt vấn đề:

Bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX, với sự xuất hiện của Giáo dục học thực nghiệm, đã dẫn đến quan niệm cho rằng: dạy học trước tiên phải là Tâm lý học học tập ứng dụng. Vì vậy việc xây dựng các mô hình giảng dạy phải xuất phát từ các định đề mô tả và giải thích của các lý thuyết học tập.
Đến thế kỷ XX, khi Tâm lý học thực sự trở thành khoa học độc lập, thì đồng thời cũng xuất hiện nhiều hệ thống lý thuyêt Tâm lý học khác nhau. Sự phong phú và phức tạp của hệ thống này được biểu hiện cụ thể ở sự đa nguyên của hệ thống các lý thuyết học tập tương ứng – ảnh hưởng nhiều đến thực tiễn dạy học nhưng không phải lúc nào cũng tương thích với nhau (như các quan điểm khác nhau của Thuyết hành vi, Thuyết chức năng, Thuyết cấu trúc, Thuyết nhận thức, v.v …).
Vì vậy để có cách nhìn khái quát và đầy đủ thì phải kết hợp các lý thuyết với nhau, lựa chọn những tinh hoa của mỗi thuyết để vận dụng chúng trong những trường hợp cụ thể.
Do tính quá phức tạp và sâu sắc của các lý thuyết Tâm lý học, do khả năng nghiên cứu, sưu tầm có hạn, trong phạm vi hạn hep của bài viết, chỉ xin đề cập đến một học thuyết: Thuyết hành vi và những ứng dụng của nó trong dạy học: Mô hình học, Mô hình dạy, và quan điểm về thiết kế dạy học.

2. Thuyết hành vi và ứng dụng trong dạy hoc:̣

a. Thuyết hành vi:

Sự ra đời của Tâm lý học hành vi là một cuộc cách mạng lớn của Tâm lý học đầu thế kỷ XX, đã làm thay đổi cơ bản hệ thống quan điểm Tâm lý học đương thời: chuyển từ quan niệm Tâm lý học là khoa học về Ý thức với phương pháp nội quan, sang quan niệm đối tượng của Tâm lý học là Hành vi với phương pháp quan sát và thực nghiệm khách quan.
Các đại biểu kiệt xuất của dòng Tâm lý học này phải kể đến: E. L. Thorndike (1874 – 1949), J. B. J. Watson (1878 – 1958), B. F. Skinner (1904 – 1990), v.v…
Ra đời vào năm 1913 ở Mỹ, gắn liền với tên tuổi của nhà sáng lập J. B. Watson, với bốn điểm cơ bản:

 Đối tượng nghiên cứu là hành vi có thể quan sát được, lượng hoá được.
 Khái niệm cơ bản của Thuyết hành vi là: Kích thích – Phản ứng.
 Phương pháp nghiên cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan.
 Mục đích đặt ra là phải điều khiển được hành vi.

Xem xét một cách hệ thống sự phát triển của học thuyết hành vi, từ J. Watson cho đến B. F. Skinner đều toát lên ý đồ xây dựng các mô hình kỹ thuật, mang tính chất công nghệ, nhằm điều khiển quá trình hình thành và thay đổi hành vi của con người.
Loại bỏ bản chất cơ học với những hạn chế của nó trong quan điểm của thuyết hành vi, là hạt nhân hợp lý, cho phép sử dụng chúng như là những phương tiện kỹ thuật cho các hoạt động của đời sống xã hội. Phạm vi ứng dụng của thyết hành vi rất lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực day học.

b. Ứng dụng của thuyết hành vi trong dạy học:

Nguyên lý chung của việc dạy học theo thuyết này là điều khiển quá trình hình thành làm tăng cường, suy giảm, làm mất một hành vi nào đó của cá nhân hoặc của nhóm.
Các nhà Hành vi chủ nghĩa tin rằng, bằng cách đưa ra những kích thích đúng được củng cố, người học có thể học được bất cứ hành vi nào. Nói khác đi, học tập là sự thay đổi một cách có hệ thống hành vi khi lặp lại tình huống giống nhau. Với quan điểm như vậy, học tập theo lý thuyết hành vi, quan tâm đến kết quả cuối cùng đạt được là sản phẩm học hay hành vi quan sát được.
Trong số các vấn đề trọng tâm của lý thuyết này, có quá trình điều kiện hoá cổ điển và quá trình điều kiện hoá tạo tác, mà theo đó là hai mô hình học và dạy tương ứng với nó.

Các mô hình học tập theo lý thuyết hành vi

Mô hình học tập theo kiểu S:
 
  Cơ sở là Thuyết hành vi cổ điển của J. Watson – với phương pháp phản xạ có điều kiện của I. Páplốp làm nền tảng (quá trình điều kiện hoá cổ điển), với công thức:

S - R (Stimulus - Répondant)
Kích thích – đáp lại
(Phản ứng R chỉ xuất hiện khi có tác động của kích thích S nào đó)
 

 Cơ chế học tập theo mô hình này là cơ chế hình thành những hành vi đáp lại phản xạ có điều kiện trong môi trường sống của chủ thể.Mối quan hệ dạy và học theo mô hình này là:

S - R
Dạy - Học
(Tác nhân kích thích - Hành vi – đáp lại).

 Kết quả học tập theo mô hình này hành vi phản hồi, đáp laị. Tức là hành vi được hình thành bởi kích thích nhất định.

 Việc củng cố gắn liền với kích thích
 

Học theo mô hình này là quá trình hoàn toàn thụ động, là sự tiếp thu một chiều những gì thầy truyền đạt.
 
Mô hình học tập kiểu R
 
 

 Cơ sở là Thuyết hành vi tạo tác của E. L. Thorndike và B. F. Skinner thể hiện qua công thức:

 

R - S
R = Hành vi – tác động
S = Kích thích – hệ quả của hành vi tác động.

 Học là hình thành các hành vi – tác động phản xạ có điều kiện do chính hệ quả của các hành vi đó làm tác nhân kích thích.
 Cơ chế học của B. F. Skinner ngược hẳn với cơ chế học của I. Paplôp: đó là quá trình hình thành các hành vi - tác động phản xạ có điều kiện trong môi trường sống của chủ thể.
 Kết quả học tập theo mô hình này là hành vi tạo tác hay thao tác.
 Kích thích không phải là củng cố mà là phản ứng của cơ nên học tập kiểu này gọi là kiểu R.

Sự khác biệt giữa hành vi phản hồi (kết quả của học theo mô hình của Thuyết hành vi cổ điển) và hành vi tạo tác (kết quả của học theo mô hình của Thuyết hành vi tạo tác):
 

  Trong điều kiện hoá cổ điển: kích thích diễn ra trước phản ứng, phản ứng này cần thay đổi.
 
 

 Trong điều kiện hoá tạo tác: kích thích theo sau phản ứng hành vi.
Điều đó có nghĩa: theo Thuyết hành vi cổ điển, thì việc học tập bị chế ước bởi hệ thống các điều kiện nhất định (điều kiện hoá thụ động). Còn trong thuyết hành vi tạo tác của B. F. Skinner, đã thay đổi cơ bản khái niệm này: sự điều kiện hoá hoạt động tích cực bao hàm một hoạt động để làm cho việc học tập xảy ra.

Ta có thể so sánh hai mô hình qua bảng sau:

Mô hình học tập theo
Thuyết hành vi cổ điển

Mô hình học tập theo
Thuyết hành vi tạo tác

S – R

R – S

Tác nhân kích thích – Hành vi trả lời, đáp lạiHành vi – tác động – Kích thích - Hệ quả
 Hành vi – thao tác:
Hệ quả tích cực: Kích thích
Hệ quả tiêu cực: Ức chế
Dạy:Trình bày Học:Nghe ghi nhớ 
 Giảng giải Lặp lại
 Học - thử saiĐúng: tiếp tục
 Sai : điều chỉnh
Học – hành độngCó hiệu quả: tiếp tục
 Không hiệu quả: điều chỉnh
(Theo các tác giả: G. Malcuit, Edisem - 1995)

Các mô hình giảng dạy theo Thuyết hành vi

Các mô hình giảng dạy (khoa học cũng như thực tiễn) được hình thành để hướng tới việc tạo điều kiện, làm dễ dàng hơn, điều khiển, khuyến khích và tối ưu hoá việc học.

Các mô hình này thường là kết quả của những nỗ lực khoa học để rút ra các kết luận chỉ đạo xuất phát từ các định đề mô tả và giải thích của các lý thuyết học tập. Qua đó mà Tâm lý học giảng dạy không thể tách rời việc nghiên cứu các lý thuyết học tập. Việc nghiên cứu mô hình dạy không thể tách rời việc nghiên cứu mô hình học.

Vì thế, ứng với hai mô hình học đã đề cập, đã hình thành hai mô hình dạy:

Mô hình dạy lấy việc dạy của thầy làm trung tâm

 Cơ sở là quá trình điều kiện hoá cổ điển với phản xạ có điều kiện thụ động của I. Paplop làm nền tảng, theo công thức:

S - R
(Kích thích - trả lời, đáp lại)

 Nguyên tắc: nếu có (S) thì có (R). Điều đó có nghĩa, sự biến đổi phản ứng (R) hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố kích (S).

 Thầy là chủ thể áp đặt tri thức cho học sinh.

 Thầy làm ra sản phẩm (tạo nội dung sản phẩm dưới hìmh thức bài giảng).

Thầy tổ chức vận hành quá trình đó (theo trình tự bài giảng đã chuẩn bị trước).

Việc truyền đạt là trực tiếp, một chiều.

Việc củng cố gắn liền với sự lặp lại, học thuộc lòng.
 

Dễ dàng nhận ra rằng, mô hình này thể hiện tính chất lệ thuộc và thụ động của người học: Thầy là người quyết định hoàn toàn sự phát triển của học sinh.

Mô hình dạy lấy nội dung học và sự tương tác làm trung tâm

 Cơ sở là quá trình điều kiện hoá tạo tác – hay còn gọi là phản xạ có điều kiện chủ động của B. F. Skinner:

Công thức: R _ S
R: hành vi - tác động
S: kích thích - hệ quả của hành vi.

 Theo học thuyết phản xạ có điều kiện chủ động của B. F. Skinner: bài học là vì lợi ích của chính người học, mục đích học, nội dung học là do chính nhu cầu của người học.
 Trò là người tự mình làm ra sản phẩm ban đầu (tri thức tự mình làm ra) dưới sự hướng dẫn của thầy. 
 Thầy là người hướng dẫn, kích thích hoạt động của người học, người cố vấn, kết luận, làm cho sản phẩm ban đầu trở thành sản phẩm thật sự (củng cố).
 Thầy không còn độc quyền làm ra sản phẩm, mà có trách nhiệm tạo ra các điều kiện cần thiết để cho người học có thể tự mình làm ra sản phẩm.
 Trò tích cực chủ động tham gia vào việc học bằng hệ thống tương tác có hiệu quả.
 Trò tự giác tìm kiếm kiến thức bằng hành động thử và sai của mình.

Theo lý thuyết này: có thể hướng hoạt động tìm kiếm ấy trong dạy học theo chương trình: phân chia quá trình giải quyết nhiệm vụ học tập thành những thao tác riêng rẽ, mỗi thao tác được kiểm soát bằng củng cố, được dùng làm liên hệ ngược. Điều đó có nghĩa: nội dung dạy học được chia thành các đơn vị nhỏ và củng cố các hành vi thành công. Việc chia nhỏ này theo lôgíc: tập hợp các hành vi đúng được củng cố, sẽ hình thành hành vi mong muốn (hiệu quả học).

Vì thế, mô hình này gọi là mô hìmh lấy nội dung học và tương tác làm trung tâm

Những quan điểm về thiết kế dạy học theo lý thuyết hành vi

Các mô hình thiết kế dạy học có cơ sở là Khoa học tâm lý và sử dụng những nhận thức của Lý thuyết học tập, theo đó, chúng là những ứng dụng công nghệ các kết quả nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực này.
Việc thiết kế dạy học được hiểu như là việc lập kế hoạch cho quá trình đó.

Với mô hình học và dạy theo điều kiện hóa cổ điển: việc thiết kế dạy học chủ yếu tập trung vào việc lập kế hoạch cho những gì giáo viên sẽ làm, là sự mô tả rất chi tiết các yếu tố sau:

 Mục tiêu cần đạt ở người học (theo mô hình này, rất hiệu quả cho việc hình thành các phản xạ cảm xúc).
 Cấu trúc nội dung lôgíc, chặt chẽ.
 Xác định phương pháp cho mỗi phần nội dung tương ứng.
 Lựa chọn các phương tiện hỗ trợ.
 Hướng dẫn đánh giá việc học.
 Việc khai thác các nguyên tắc của điều kiện hoá cổ điển trong mô hình thiết kế này, có thể tiến hành theo các hướng:

Kết hợp những sự kiện tích cực, thoải mái với những nhiệm vụ, nội dung học tập (hay, hấp dẫn, sinh động, …).
Giúp học sinh nhận ra sự khác biệt, sự tương tự trong số các tình huống để họ phân biệt và khái quát hoá một cách hợp lý.

Với mô hình học và dạy trong điều kiện hoá tạo tác:lập kế hoạch hướng về những việc mà người học sẽ có khả năng làm sau khi học, cụ thể: 
Mục tiêu:

 Người học làm được gì.
 Đặt tên cho các hành vi mong muốn và xác định hành vi có thể quan sát được.
 Tiêu chí đánh giá mức độ đạt (chấp nhận được).

Cấu trúc nội dung học tập, theo nguyên tắc:

 Nguyên tắc phân tích: chia nội dung phức tạp thành những yếu tố thành phần đơn giản.
 Nguyên tắc tính dễ dàng tương đối: tổ chức các yếu tố trên theo trình tự từ đơn giản đến phức tạp, sao cho mỗi bước dễ dàng khi hoàn thành bước trước đó.
 Nguyên tắc củng cố: kích thích cho người học có hành vi đáp ứng và hợp thức hoá khi có đáp ứng đúng.

Phương pháp, phương tiện: tổ chức cho người học chủ động tham gia hoạt động học bằng hệ thống tương tác có hiệu quả, tác động trực tiếp đến nội dung, tự làm ra sản phẩm từng bước trong quá trình xử lý nội dung.

Đánh giá:quyết định phương tiện có hiệu quả nhất để đánh giá.

Tóm lại: Việc ứng dụng Thuyết hành vi trong dạy học thể hiện ở chỗ: muốn huấn luyện, hình thành một chức năng tâm lý nào đó, phải đưa chủ thể vào các điều kiện xác định, tức là phải tường minh hoá nội dung dạy học theo một quy trình chặt chẽ, để qua đó có thể quan sát và kiểm soát được quá trình hình thành các hành vi tâm lý của người họ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates