Tâm lý học hành vi cổ điển.
Thuyết hành vi
- Tiếp cận hành vi là một trong những cố gắng rất lớn của tâm lí học thế giới đầu thế kỉ XX, nhằm khắc phục tính chủ quan trong nghiên cứu tâm lí người thời đó. Kết quả là đã hình thành trường phái có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lí học Mĩ và thế giới trong suốt thế kỷ XX: Tâm lý học hành vi, mà đại biểu là các nhà tâm lí học kiệt xuất: E.L.Thorndike (1874-1949), J.B.J.Watson (1878-1958), E.C.Tolman (1886-1959), K.L.Hull (1884-1952) và B.F.Skinner (1904-1990) và A. Bandura v.v…
- Tâm lý học hành vi ra đời là một cuộc cách mạng, làm thay đổi cơ bản hệ thống quan niệm về tâm lý học đương thời. Theo đó, đối tượng của tâm lý học là hành vi chứ không phải ý thức. Phương pháp nghiên cứu là quan sát và thực nghiệm khách quan chứ không phải là nội quan. Trước và trong thời kỳ xuất hiện Thuyết hành vi, tâm lý học được hiểu là khoa học về ý thức và phương pháp nghiên cứu là nội quan (tự quan sát và giải thích). Ngay từ khi ra đời ở Đức năm 1879, với tư cách là khoa học độc lập, tâm lý học đã được mệnh danh là Tâm lý học nội quan. W.Wundt - người sáng lập ra Tâm lý học này, đã xác định đối tượng của tâm lý học là “tổ hợp các trạng thái mà ta nghiệm thấy - các trạng thái được trực tiếp thể nghiệm trong vòng ý thức khép kín”. Sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học nội quan đã hình thành nên Tâm lý học cấu trúc ở Mĩ. Mặt khác, do nhu cầu khắc phục sự bế tắc của Tâm lý học nội quan, cũng ở Mĩ những năm này đã xuất hiện Tâm lý học chức năng. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai dòng phái đều không tạo lập được khoa học khách quan về ý thức. Lý luận của chúng gắn liền với phương pháp chủ quan, điều này gây sự thất vọng ở khắp mọi nơi.
- Kết quả là, những vấn đề cơ bản của tâm lý học trở nên mờ mịt đối với nhiều người: Đối tượng nghiên cứu (ý thức) và nguồn gốc của nó (ý thức bắt đầu từ đâu), phương pháp nghiên cứu (nội quan, nguyên tắc giải thích: nguyên nhân tâm lý như là sự chế uớc của một số hiện tượng ý thức đối với các hiện tượng khác). Từ đó đã xuất hiện nhu cầu cấp thiết về đối tượng, phương pháp và nguyên tắc mới, đặc biệt ở Mĩ, nơi mà cách tiếp cận thực dụng trong nghiên cứu con người chiếm vai trò thống trị. Điều này đã được chứng minh bằng khuynh hướng chức năng, mà trọng tâm chú ý là vấn đề thích ứng của cá nhân với môi trường. Nhưng chủ nghĩa chức năng, vốn bắt nguồn từ các quan niệm thời cổ đại về ý thức như là một bản thế đặc biệt vươn tới mục đích, đã bị bất lực khi giải thích nguyên nhân điều khiển hành vi con người, sự tạo ra những hình thức hành vi mới.
- Phương pháp chủ quan đã mất uy tín, phải nhường vị trí cho phương pháp khách quan. Ở đây, sinh lý học, đặc biệt là sinh lý học thần kinh đã đóng vai trò quan trọng, trong đó công đầu thuộc về nhà sinh lý học người Nga I.P.Pavlov, với khái niệm phản xạ có điều kiện. Về phương diện kỹ thuật, phương pháp nghiên cứu phản xạ có điều kiện cho phép ta nhận biết khách quan các phản ứng của cơ thể đối với một kích thích. Các nhà hành vi học đã không bỏ qua thành tựu này. Phương pháp phản xạ trở thành cứu cánh của họ. Mặt khác, sự phát triển của tâm lý học động vật đã mang lại cho Tâm lý học hành vi đối tượng nghiên cứu mới: hành vi của động vật. Sự xuất hiện những nghiệm thể mới – động vật - không có khả năng nội quan, đã đóng vai trò quan trọng giúp nhà nghiên cứu chuyển từ quan sát sang thực nghiệm. Hiệu quả tác động của nghiệm viên bây giờ không phải là tự “thông báo” của nghiệm thể về các trạng thái của mình (như trong Tâm lý học nội quan) mà là những phản ứng vận động - một điều hoàn toàn khách quan. Trong biên bản thực nghiệm đã xuất hiện các thông tin kiểu mới về nguyên tắc. Hơn nữa, chính những nguyên tắc và phương pháp này đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của triết học thực chứng và chủ nghĩa cơ học, đang chi phối tinh thần nước Mĩ. Đó chính là hoàn cảnh tư tưởng - lý luận đã sinh ra Thuyết hành vi.
- Nhân vật hàng đầu của Tâm lý học hành vi là J.Watson. Các luận điểm của ông là nền tảng lý luận của hệ thống tâm lý học này. Nói tới Tâm lý học hành vi, không thể không nói nhiều về các quan điểm đó. Tuy nhiên, một mình J.Watson không làm nên trường phái thống trị tâm lý học Mĩ và ảnh hưởng lớn tới sự phát triển tâm lý học thế giới suốt thế kỷ XX. Trước J.Watson có nhiều bậc tiền bối, mà tư tưởng và kết quả thực nghiệm của họ là cơ sở trực tiếp, để trên đó Watson xây dựng các luận điểm then chốt của Tâm lý học hành vi. Sau J.Watson nhiều nhà tâm lý học lớn khác của Mĩ đã phát triển học thuyết này, đưa nó thành hệ thống tâm lý học đa dạng và bám rễ vào mọi ngóc ngách của đời sống xã hội. Vì vậy, có thể chia quá trình phát triển của Tâm lý học hành vi thành ba giai đoạn không hoàn toàn theo trật tự tuyến tính về thời gian: những cơ sở lý luận và thực nghiệm đầu tiên hình thành các luận điểm cơ bản (Thuyết hành vi cổ điển); sự phát triển tiếp theo của Tâm lý học hành vi, sau khi có các luận điểm của J.Watson (các thuyết hành vi mới và hậu hành vi).
I. Những cương lĩnh đầu tiên của thuyết hành vi.
Những cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa hành vi do Watson xây dựng lên, sau đây là nội dung cụ thể của những cương lĩnh ấy:
- Tâm lý học hành vi tuyên bố không quan tâm đến việc mô tả, giảng giải các trạng thái tâm lý của ý thức mà chỉ quan tâm đến hành vi của tồn tại người, đối tượng của tâm lý học hành vi là hành vi con người. Hành vi được xem là tổ hợp các phản ứng của cơ thể trước các kích thích của môi trường bên ngoài.
- Theo Watson có 4 loại hành vi: hành vi bên ngoài, hành vi bên trong, hành vi tự động minh nhiên và hành vi tự động mặc nhiên. Theo ông, mọi việc con người làm kể cả suy nghĩ đều thuộc một trong bốn loại hành vi này. Nghiên cứu dùng các phương pháp khoa học khách quan, sử dụng phương pháp ghi chép các sự kiện kiểm soát được về quá trình cơ thể, thích nghi với môi trường.
- Trong tâm lý học hành vi cổ điển, hành vi của động vật và người bị giản đơn hóa thành những cử động cơ thể. Nhờ những cử động đó với tính cách là “một cơ quan biết phản ứng” hay “một hệ thống vật lý” thích nghi với môi trường để đảm bảo sự sống còn. Quan sát cũng như giảng giải hành vi đều phải tuân theo công thức S - R. Trong đó S là kích thích, R là phản ứng. Kích thích có thể là một tình huống tổng quát của môi trường hay một điều kiện bên trong nào đó của sinh vật, phản ứng là bất cứ cái gì mà sinh vật làm và nó bao gồm rất nhiều thứ.
- Với công thức S - R, Watson đã đặt cho thuyết hành vi mục đích cao cả là điều khiển hành vi động vật và con người. Lấy nguyên tắc “thử - sai” làm nguyên tắc khởi thuỷ điều khiển hành vi. Hành vi chỉ là mối liên hệ trực tiếp “cơ thể - môi trường”; theo đó, tâm lý, ý thức chẳng qua chỉ là những hiện tượng thừa. Tâm lý học với tư cách là khoa học về khoa học về hành vi có trách nhiệm vứt bỏ toàn bộ các thuật ngữ của tâm lý học cấu trúc và tâm lý học chức năng như ý thức, trạng thái và quá trình ý thức, lý trí và hình ảnh…
Do lấy hành vi làm đối tượng nghiên cứu và dùng phương pháp khoa học tự nhiên, tâm lý học lần đầu tiên có dáng dấp tâm lý học khách quan.
II. Hành vi và con người.
Nghiên cứu hành vi của con người, điều ấy có nghĩa là đưa cuộc sống của con người trở thành đối tượng của tâm lý học. Chẳng cần phải nói, ai cũng có thể thấy hành vi là cái gì và nó tồn tại trong hiện thực một cách khách quan. Nếu như trong tâm lý học truyền thống chỉ tìm hiểu nội quan thì tâm lý học hành vi lại là một bước tiến đáng kể, nghiên cứu nguồn gốc sinh ra “tâm hồn”, “hồn”, “tâm lý”. Khái niệm hành vi được xây dựng trên nền móng của sự chứng thực có thể quan sát từ phía ngoài.
Tâm lý (của cả người và con vật ) chỉ là các dạng hành vi khác nhau. Hành vi là tập hợp các phản ứng ® của cơ thể đáp lại các kích thích từ môi trường bên ngoài (S). Nhiệm vụ của nhà tâm lí học là mô tả và lượng hoá các hành vi đó, đúng như nó diễn ra trong tình huống xác định. Phương pháp của nhà tâm lí học là quan sát khách quan và thực nghiệm các phản ứng của cơ thể khi có tác nhân kích thích, nhằm mục đích xác định tương quan giữa kích thích và phản ứng.
Chính sự quan sát đó chính là lập trường hiện thực của tâm lý học hành vi và toàn bộ cuộc sống của con người được xem như lịch sử của tính tích cực, từ đó hình thành khái niệm “dòng tính tích cực”. Trong tâm lý học hành vi khái niệm này được ngầm hiểu là “dòng hành vi”, đó là toàn bộ hành vi do các trả lời đơn thuần đối lới các kích thích hợp lại.
Hầu hết các thực nghiệm của trường phái hành vi được thực hiện trên động vật (chuột, chim bồ câu…), sau đó, các kết quả này được ứng dụng trên con người. Cơ sở sinh lí thần kinh được quan tâm trong các thực nghiệm là phản xạ có điều kiện. Cơ chế hình thành các hành vi là sự mò mẫm của chủ thể, theo nguyên tắc “thử và sai” qua nhiều lần, cho tới khi xác lập được các phản ứng phù hợp, luyện tập và củng có nó
Cậu bé Albert - thí nghiệm gây tranh cãi trong lịch sử tâm lý học
Thí nghiệm do "cha đẻ thuyết hành vi" John B. Watson tiến hành vào năm 1920 đã khiến bé Albert 9 tháng tuổi trở nên kinh hãi loài chuột.
Albert còn sợ mọi đồ vật được làm bằng lông trắng. Bỏ qua vấn đề đạo đức, thí nghiệm này trở thành một ví dụ kinh điển và được trích dẫn trong hầu hết các tài liệu tâm lý học trên thế giới, trang Today I Found Out viết.
Watson nảy ra ý tưởng từ công trình của Ivan Pavlov, nhà sinh lý học người Nga. Pavlov quan sát sự tiết dịch vị của loài chó và nhận thấy chúng tiết nước bọt nhiều hơn khi nghe thấy bước chân hoặc tiếng chuông của người chăm sóc thông báo bữa ăn đã đến. Hiện tượng này chỉ xảy ra ở những con chó được huấn luyện lâu dài và trở thành cơ sở cho Pavlov xây dựng thuyết phản xạ có điều kiện. Tò mò liệu điều tương tự có xảy ra ở con người, Watson đã quyết định thử nghiệm trên một em bé.
Watson tin rằng trẻ nhỏ là một trang giấy trắng vì thế sẽ cho kết quả đúng nhất. Không còn nhiều ghi chép về quá trình thực hiện bởi nhà tâm lý học người Mỹ đã đốt phần lớn giấy tờ trước khi qua đời, song người ta biết Albert được chọn từ các em bé tại một bệnh viện nằm trong phần đất của Đại học John Hopkins khi bé mới 8 tháng 26 ngày. Dựa trên tài liệu còn sót lại, Albert khiến Watson cùng Roslie Raynor, sinh viên đồng thời là người tình của ông ấn tượng ngay lập tức với vẻ ngoài "lãnh đạm và vô cảm", rất ít khóc.
![]() |
Sau thí nghiệm, Albert khóc thét khi y tá đặt một con thỏ lên người bé. Ảnh: hurriyet.com.fr. |
Cuộc thí nghiệm bắt đầu. Albert tiếp xúc với chuột bạch, thỏ, khỉ và cả giấy đang cháy. Không thứ gì khiến cậu hoảng sợ. Đến khi Albert được 11 tháng 3 ngày, Watson tiếp tục công việc và đưa cho bé trai một chú chuột. Đúng như dự đoán, Albert lại gần con vật như thói quen. Đúng lúc này, Watson dùng búa đập vào thanh thép phía sau gây ra một tiếng động đinh tai khiến em nhỏ khóc thét. Lặp đi lặp lại nhiều lần, cuối cùng, Albert chỉ nhìn thấy chuột là đã sợ.
Cho phép con mình tham gia vào nghiên cứu, mẹ của Albert nhận được khoản tiền là một USD (tương đương 12 USD ngày nay). Một số chuyên gia nhận định bà đồng ý chỉ vì sợ mất công việc y tá tại bệnh viện.
Về một phương diện nào đó, thí nghiệm trên cũng có ích lợi. Chẳng ông bố bà mẹ nào muốn con mình bị chuột cắn và trong trường hợp này Albert sẽ luôn tránh xa loài chuột. Thế nhưng, như chính Watson đã đặt giả thiết, cậu bé trở nên kinh hãi bất cứ đồ vật, con vật nào có lông như thỏ, chó và cả người có râu trắng như ông già Noel. Tệ hơn nữa, Watson không hề theo dõi sau khi Albert rời khỏi bệnh viện.
Liệu có phải Albert đã lớn lên với nỗi sợ ấy? Điều này đến nay vẫn còn là một bí ẩn bởi chưa ai xác định được chính xác danh tính của cậu bé ngày trước. Theo nghiên cứu của nhà tâm lý học Hall P. Beck, Albert tên thật là Douglas Merrite. Thế nhưng, nếu đây là sự thật, thí nghiệm khi xưa sẽ càng đen tối hơn bởi Merrite rất ốm yếu và qua đời lúc 6 tuổi do chứng não úng thủy, trái ngược với mô tả Albert là "một trong những em bé phát triển nhất từng được đưa đến bệnh viện" của Watson.
Các nhà khoa học khác cho rằng Albert là William Barger. Không giống như Merrite, Barger khi còn nhỏ khỏe mạnh và mũm mĩm, phù hợp với ghi chép của Watson cũng như các hình ảnh còn lại. Hơn nữa, tên đệm của Barger chính là Albert, có thể giải thích tại sao Watson lại ghi tên em bé ngày trước là "Albert B". So với Merrite, Barger có cuộc đời viên mãn bên cạnh gia đình và bạn bè. Ông ra đi ở tuổi 87 và đặc biệt rất ghét chó.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét