SƯU TẬP NHỮNG KIẾN THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN ÂM NHẠC VIỆT NAM THỜI 4.0

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2020

Quá trình dạy học

 


QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC 1. 

ĐỊNH NGHĨA

Dạy học là hoạt động đặc trưng nhất, chủ yếu nhất của nhà trường, diễn ra theo một quá trình nhất định từ t0 đến tn gọi là quá trình dạy học (QTDH). Đó là một quá trình xã hội bao gồm và gắn liền với hoạt động dạy và hoạt động học trong đó học sinh tự giác, tích cực, chủ động, tự tổ chức, tự điều kiển và điều chỉnh hoạt động nhận thức của mình dưới sự điều khiển chỉ đạo, tổ chức, hướng dẫn của giáo viên nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ dạy học.

Quá trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hành động dạy, hành động của người dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong khoảng không gian và thời gian nhất định, nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.

2. CÁC DẤU HIỆU CỦA QTDH

    Dạy học là một dạng hoạt động đặc thù của xã hội, nhằm truyền thụ và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, trên cơ sở đó hình thành và phát triển nhân cách của người học. Đó là sự vận động của một hoạt động kép, trong đó diễn ra hai hoạt động có chức năng khác nhau, đan xen và tương tác lẫn nhau trong khoảng không gian và thời gian nhất định: hoạt động dạy và hoạt động học.

-Hoạt động học, chủ thể là người học, hướng vào đối tượng học, tiếp nhận và chuyển hóa nó, biến thành của riêng, qua đó phát triển chính bản thân mình.

-Hoạt động dạy, chủ thể là người dạy, hướng vào đối tượng dạy, làm cho nó trở thành đối tượng của sự điều khiển của mình. Vai trò và tính chất của hoạt động dạy cũng như vị thế của người dạy tuỳ thuộc vào việc hoạt động dạy có đối tượng là gì.

Hoạt động dạy và hoạt động học đều phải được tiến hành trên bản thể của QTDH là nội dung dạy học (NDDH). NDDH là yếu tố khách quan, quyết định tiến trình và phương pháp của hoạt động dạy và hoạt động học.

Kết quả của QTDH là làm biến đổi ở người học những đặc tính nào đó đã được xác định từ trước và tương ứng với NDDH. Nói cách khác, phải thực hiện được mục tiêu dạy học của chính QTDH đó.

Một QTDH bất kì bao giờ cũng phải được tiến hành trong khoảng không gian, thời gian nhất định (một tiết dạy, một bài, một khóa đào tạo bồi dưỡng,...) và chịu sự chế ước bởi các điều kiện kinh tế - xã hội – văn hóa nhất định. Nói cách khác, QTDH phải là một quá trình học tập có kiểm soát và điều khiển được.

Tóm lại quá trình dạy học hình thành và phát triển nhân cách của người học. Đó là sự vận động của một hoạt động kép dạy và học đan xen và tương tác lẫn nhau trong khoảng không gian và thời gian nhất định. Kết quả của QTDH là làm biến đổi ở người học những đặc tính nào đó đã được xác định từ trước (xem hình sau).


 3. HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HOẠT ĐỘNG HỌC 

Hoạt động dạy:

- Dạy học được hiểu là một hình thức đặc biệt của giáo dục (nghĩa rộng), xem như là một trường hợp riêng của nó (của giáo dục). Dạy học là con đường đặc biệt quan trọng trong mối quan hệ biện chứng và phối hợp với các con đường, các hoạt động khác trong quá trình giáo dục để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ giáo dục đặt ra.

- Dạy học là một quá trình truyền thụ, tổ chức nhận thức kiến thức, kinh nghiệm xã hội và nghề nghiệp cho người học nhằm hình thành và phát triển nhân cách nói chung và nhân cách nghề nghiệp nói riêng. Dạy học bao hàm trong nó sự học và sự dạy gắn bó với nhau, trong đó sự dạy không chỉ là sự giảng dạy mà còn là sự tổ chức, chỉ đạo và điều khiển sự học.

- Dạy học là một mặt của quá trình dạy và học do người giáo viên thực hiện theo nội dung, chương trình đào tạo đã định nhằm giúp người học đạt được các mục tiêu học tập theo từng bài học hoặc toàn khóa đào tạo. Hoạt động dạy học không chỉ hướng đến yêu cầu truyền thụ kiến thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo và thái độ nghề nghiệp đúng đắn ở người học mà còn góp phần phát triển tính tích cực và tổ chức các hoạt động học tập của học viên.

- Dạy là hoạt động của giáo viên, không chỉ là hoạt động truyền thụ cho học sinh những nội dung đáp ứng được các mục tiêu đề ra, mà còn hơn nữa là hoạt động giúp đỡ chỉ đạo và hướng dẫn học sinh trong quá trình lĩnh hội. Chỉ khi nào nắm bắt được các điều kiện bên trong (hiểu biết, năng lực, hứng thú,...) của học sinh thì giáo viên mới đưa ra được những tác động sư phạm phù hợp để hoạt động học đạt được kết quả mong muốn.

Hoạt động học:

- Học, theo nghĩa rộng nhất, được hiểu là quá trình cơ bản của sự phát triển nhân cách trong hoạt động của con người, là sự lĩnh hội những “sức mạnh bản chất người” đã được đối tượng hóa trong các sản phẩm của hoạt động con người. Đó là hoạt động phản ánh những mặt nhất định của hiện thực khách quan vào ý thức người học. Tuy nhiên nó chủ yếu hướng người học vào lĩnh hội những chân lí đã được loài người phát hiện nhưng chúng lại là mới đối với họ.

- Hoạt động học là một hoạt động nhận thức độc đáo của người học, thông qua đó người học chủ yếu thay đổi chính bản thân mình và ngày càng có năng lực hơn trong hoạt động tích cực nhận thức và cải biến hiện thực khách quan.

Hoạt động dạy học gồm hai mặt của quá trình đó là dạy và học luôn đi kèm biện chứng với nhau. Hoạt động dạy - học có các đặc trưng sau đây:

- Thể hiện vai trò chủ đạo của giáo viên

- Là một hoạt động có mục đích rõ ràng

- Có nội dung, chương trình kế hoạch cụ thể

- Diễn ra trong một môi trường nhất định (lớp học, xưởng thực hành, phòng thí nghiệm)

- Sử dụng các phương tiện đa dạng (ngôn ngữ, thiết bị, tài liệu)

- Đa dạng về hoạt động: nhận thức, trí tuệ, vận động, thao tác, ...

- Kết quả hoạt động dạy được đánh giá thông qua kết quả hoạt động học tập

4. MỘT SỐ QUAN NIỆM VỀ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

Cho đến nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về QTDH. Dưới đây trình bày ngắn gọn về một số quan niệm:

- Theo thuyết hệ thống, QTDH với tư cách như một hệ thống, gồm có nhiều thành tố, trong đó GV và hoạt động dạy, HS và hoạt động học là những thành tố cơ bản nhất. Không có hai thành tố đó, đặc biệt là không có học sinh và hoạt động học thì không thể có QTDH. Trong mối quan hệ dạy – học trong QTDH, GV đóng vai trò chủ đạo với tư cách là chủ thể tác động sư phạm, HS không chỉ là đối tượng chịu sự tác động sư phạm đó mà còn là chủ thể nhận thức, chủ thể của hoạt động học tập. Chỉ khi nào thực sự là chủ thể nhận thức thì HS mới tiếp thu một cách có ý thức và có hiệu quả sự tác động sư phạm. Vai trò chủ thể nhận thức đòi hỏi học sinh phải tự giác, tích cực, độc lập trong hoạt động học tập của mình.

- Theo quan điểm của điều khiển học, ta có thể coi QTDH là một hệ điều chỉnh. Trong hệ đó GV là bộ phận điều chỉnh, HS là bộ phận bị điều chỉnh nhưng đồng thời tự điều chỉnh (xem hình dưới). Sự điều chỉnh và sự tự điều chỉnh dựa trên nguyên lý nền tảng của điều khiển học, đó là liên hệ ngược, là sự thu nhận thông tin về mức độ phù hợp của hành động thực hiện so với hành động quy định. Có hai loại liên hệ ngược: liên hệ ngoài từ HS đến GV chủ yếu giúp cho sự điều chỉnh của GV và liên hệ trong ở bản thân HS chủ yếu giúp cho sự điều chỉnh của HS. Các mối liên hệ ngược trong được tạo ra không chỉ thông qua việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập do GV tiến hành mà còn thông qua sự tự kiểm tra, tự đánh giá của chính bản thân HS. Sự điều chỉnh, sự chỉ đạo của GV phải làm sao cho sự tự kiểm tra, tự đánh giá đó hình thành và ngày càng phát triển ở HS để họ tự điều chỉnh và học tập một cách tự giác, tích cực và độc lập, tức là làm cho học tập trở thành một hệ kín điều chỉnh với tính chất là một hệ thứ cấp trong hệ dạy học, ở đó HS vừa là khách thể vừa là chủ thể của QTDH. Vì vậy, QTDH dưới góc độ này là quá trình phát triển biện chứng, trong đó có sự thống nhất của sự điều chỉnh (dạy), sự được điều chỉnh và sự tự điều chỉnh (Theo thuyết thông tin, QTDH bao gồm hai bộ phận là: bộ phận xử lí và truyền thông tin (GV) và bộ phận thu nhận, xử lí, lưu trữ và vận dụng thông tin (HS). Trong quá trình đó, vấn đề rất cơ bản là làm sao khử được những thông tin, tín hiệu nhiễu khác nhau để đảm bảo cho việc truyền và nhận thông tin được thông suốt, đạt hiệu suất và hiệu quả cao.



Theo tư tưởng công nghệ, đã và đang được vận dụng ngày càng sâu rộng vào lĩnh vực giáo dục. Theo đó, QTDH được coi là một quá trình công nghệ đặc biệt.

II. THÀNH TỐ CẤU TRÚC VÀ BẢN CHẤT CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

1. THÀNH TỐ CẤU TRÚC CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

QTDH với tư cách là một hệ thống gồm có nhiều thành tố cơ bản, trong đó GV cùng với hoạt động dạy và HS cùng với hoạt động học là hai thành tố cơ bản nhất. Mọi người đều dễ dàng thấy rằng nếu không có hai thành tố đó cùng với thành tố thứ ba là nội dung dạy học thì QTDH không thể xảy ra.

Như bất cứ hoạt động nào của con người, hoạt động hay QTDH cũng có mục tiêu, cần sử dụng những phương pháp, phương tiện và cuối cùng sẽ đạt được những kết quả nhất định. Tất cả những thành tố trên tồn tại và tác động qua lại lẫn nhau trong một mối liên hệ hữu cơ chặt chẽ và toàn bộ quá trình hay hệ thống dạy học lại được đặt trong một môi trường kinh tế xã hội ở cả bình diện vĩ mô lẫn vi mô. Bất cứ lúc nào và ở đâu, hễ QTDH diễn ra là các thành tố cơ bản đó lại tồn tại và tác động lẫn nhau trong một cấu trúc xác định của QTDH.

Nếu chỉ xét cấu trúc của chúng ở dạng giản đơn nhất, thì một QTDH bao gồm các yếu tố: mục đích (mục tiêu dạy học), nội dung dạy học, các hoạt động dạy – học, phương pháp dạy học, phương tiện dạy học và kết quả học tập. Các yếu tố trên có sự quan hệ hữu cơ với nhau, chế ước và chịu sự chế ước lẫn nhau, trong đó mục tiêu dạy học qui định các yếu tố khác.

Mặt khác, mục tiêu dạy học nói riêng và các yếu tố khác của QTDH nói chung được xuất phát từ nhu cầu của xã hội và chịu sự tác động của điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội – khoa học,... Nói cách khác, các yếu tố xã hội này tạo nên một “trường xã hội”, trong đó diễn ra hoạt động dạy học. Ta có thể mô tả một cách đơn giản mối quan hệ giữa các thành tố cơ bản của QTDH như sơ đồ dưới đây:


2. BẢN CHẤT CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
Quá trình dạy học là quá trình tương tác giữa con người với nhau trong vô số các điều kiện ảnh hưởng như chính trị, kinh tế, tâm lý, xã hội, khoa học giáo dục, thực trạng về trình độ khoa học kỹ thuật,.... Cho nên việc xem xét bản chất của QTDH này cũng cần phải có cách nhìn tổng thể bao quát. Quá trình dạy học có các bản chất sau đây:
a) QTDH là một bộ phận của quá trình sư phạm tổng thể
Quá trình sư phạm tổng thể hay quá trình giáo dục nghĩa rộng là một quá trình có mục tiêu, có kế hoạch, có tổ chức, có hướng dẫn nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người đáp ứng được các yêu cầu của xã hội. Quá trình đó thường bao gồm hai quá trình bộ phận đó là quá trình dạy học và quá trình giáo dục (nghĩa hẹp). QTDH là bộ phận chính, có ý nghĩa quyết định đến kết quả của quá trình sư phạm tổng thể, nó chủ yếu nhằm trau dồi học vấn, hình thành và phát triển tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cho HS. Quá trình giáo dục chủ yếu nhằm hình thành lý tưởng, niềm tin và hành vi đạo đức cho HS

b) QTDH là một quá trình nhận thức
Mục tiêu của dạy học là, thông qua hoạt động học – một hoạt động nhận thức độc đáo của HS, làm cho học lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy được nhằm hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp.
Hoạt động hay quá trình nhận thức – học tập ở bậc giáo dục nghề nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau:
Quá trình nhận thức là quá trình phản ánh các hiện tượng thực tiễn nhưng không phải là phản ánh tất cả mọi hiện tượng mà là phản ánh một cách tích cực và chọn lọc. Chỉ những gì liên quan đến nhu cầu, hứng thú, đến hoạt động hiện tại và sự phát triển tương lai nghề nghiệp của cá nhân mới được chọn lọc và phản ánh.
Quy luật nhận thức của loài người đã được W.I. Lênin nêu lên trong công thức nổi tiếng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn...”. Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, như vậy bao gồm hai giai đoạn, đó là giai đoạn cảm tính và giai đoạn lý tính. Tuy nhiên, trong QTDH sự nhận thức - học tập của HS thường là nhận thức những điều mà nhân loại đã biết, tức là những điều mới mẻ chỉ đối với chính bản thân họ. Điều đáng lưu ý ở đây là hoạt động nhận thức của HS không cần phải diễn ra theo như trình tự và thời gian mà loài người và các nhà khoa học đã nhận thức ra chân lý đó. Tùy thuộc vào đặc điểm nội dung học tập, khả năng và điều kiện học tập thực mà HS có thể thực hiện hoạt động nhận thức – học tập đi từ cụ thể đến trừu tượng hay ngược lại từ trừu tượng đến cụ thể.
c) QTDH là một quá trình tâm lý
Khía cạnh tâm lý của QTDH có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự thành công của dạy học. Dưới đây là một số yếu tố cần được chú ý đặc biệt mà trong một vài thập kỉ qua tâm lý học về “dạy học phát triển” đã xác định:
- Ở mỗi lứa tuổi, quá trình phát triển diễn ra không giống nhau và ở mỗi lứa tuổi có một hoạt động chủ đạo tương ứng khác nhau.
- Giao tiếp là con đường khác bên cạnh hoạt động để hình thành nhân cách.
- Việc phát triển động cơ học tập như là kích thích bên trong nhằm thúc đẩy HS tham gia học tập một cách tích cực và việc phát triển hứng thú nhận thức diễn ra ngay trong quá trình nhận thức là những vấn đề đặc biệt quan trọng tác động đến chất lượng và hiệu quả của QTDH.
QTDH không chỉ bao gồm các quá trình mang tính chất nhận thức mà còn có sự giao tiếp giữa GV và HS, HS và HS. Trong học tập, HS tiếp thu không chỉ bằng tư duy mà còn bằng cả cảm xúc nữa. Sự chú ý, say mê, xúc động đều chiếm ít nhất một nửa những điều kiện của nhận thức. Giao tiếp trong QTDH có ảnh hưởng rất mạnh đến động cơ học tập, tới sự hình thành thái độ học tập của HS.
Giáo viên say sưa với bộ môn mình dạy, sự tế nhị trong quan hệ với HS, sự giúp đỡ kịp thời HS trong học tập, tính khách quan trong đánh giá, thái độ của GV,...đều ảnh hưởng đến kết quả học tập của HS. Sự khéo léo sư phạm trong tiếp xúc sẽ làm tăng hiệu quả dạy học.
d) QTDH là một quá trình xã hội
Dạy học là sự tương tác giữa người và người, người và xã hội bao hàm tổ nhóm lớp HS, tập thể sư phạm, xã hội trong trường, xã hội ngoài nhà trường, thông qua các hoạt động dạy học – giáo dục chính khóa và ngoại khóa trong và ngoài nhà trường.
Hoạt động học tập của học sinh được diễn ra trong môi trường lớp học, nhóm hoc sinh. Sự giao lưu tương tác ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình học tập. Giáo viên cần phải tạo ra môi trường có tính tích cực cho học sinh.
Mục tiêu dạy học do xã hội đặt ra (tính quy định của xã hội!) và giáo viên cũng là người đại diện cho xã hội, được xã hội phân công làm nhiệm vụ giáo dục – đào tạo thế hệ trẻ thông qua việc tổ chức, điều khiển, chỉ đạo QTDH trong nhà trường.
Công tác dạy học – giáo dục của nhà trường cần đến sự tham gia đóng góp nhiều mặt của các lực lượng xã hội khác nhau dưới những khía cạnh quan trọng như:
Quá trình phát triển chương trình GD – ĐT (theo quan niệm mới) của nhà trường cần được thực hiện trong sự phối hợp chặt chẽ giữa các nhà GD –ĐT với các lực lượng xã hội ngoài nhà trường, đặc biệt là các chuyên gia thực tiễn và những đại diện của các cơ sở sử dụng người tốt nghiệp.
Huy động và tăng cường các nguồn lực, nhất là nguồn lực tài chính đảm bảo chất lượng dạy học – giáo dục.
e) QTDH là một quá trình HS vừa là khách thể vừa là chủ thể.

Hoạt động mang tính khách thể của người học là hoạt động diễn ra dưới sự hướng dẫn, tổ chức và kiểm tra giám sát của GV nhằm tiếp cận với đối tượng lĩnh hội. Nó bao gồm một số hoạt động sau đây:
- Tiếp nhận và thực hiện các nhiệm vụ và kế hoạch hoạt động học tập do GV đề nghị.
- Điều chỉnh hoạt động học tập dưới sự kiểm tra, giám sát của GV

Hoạt động mang tính chủ thể của người học là hoạt động học tập sau:
- Tự giác, nghĩa là tự giành lấy kiến thức, kỹ năng, thái độ đúng đắn, không bị gò ép bắt buộc từ bên ngoài.
- Tích cực, nghĩa là cùng tham gia vào quá trình giảng dạy của GV như chăm chú nghe giảng, tham gia phát biểu một cách có phê phán để biến kiến thức thành của riêng mình, tự mình đi kiếm thêm kiến thức để đào sâu mở rộng chứ không chỉ chấp nhận những gì GV đã truyền thụ.
- Tự lực, có nghĩa là độc lập suy nghĩ, cố gắng tìm tòi các phương án giải quyết vấn đề.
- Cùng hợp tác để đưa ra các phương án tối ưu.
- Tự lên kế hoạch và thực hiện nhiệm vụ học tập của mình đề ra.
- Tự kiểm tra điều chỉnh hoạt động học tập của mình.

f) QTDH là một quá trình động, vừa mang tính ổn định và bất ổn định
Mang tính ổn định bởi vì GV và HS dạy và học theo một kế hoạch có mục đích, phương pháp rõ ràng. Theo hình dưới, hoạt động GV là hoạt động chỉ đạo bao gồm hoạt động kiểm tra điều chỉnh và định hướng HS để HS ở thời điểm t1 đạt được một kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo và động cơ thái độ nhất định. Để tiến hành các hoạt động đó người GV phải có một kế hoạch chuẩn bị trước như giáo án, giáo trình, kế hoạch đào tạo,...
Mang tính chất bất ổn định bởi vì con người hoạt động không chỉ theo những kiến thức, kỹ năng và mong muốn của mình mà còn hoạt động theo những điều kiện nội tâm cũng như ngoại cảnh tác động. Ví dụ như ở hình trên, HS trong giờ học còn có những hoạt động phụ ngoài ý muốn của GV, hoặc do những điều kiện bên ngoài tác động làm cho quá trình đó bị nhiễu không theo kế hoạch.

g) QTDH chịu sự tác động của điều kiện bên ngoài và điều kiện bên trong
Điều kiện bên ngoài là điều kiện cơ bản tác động gián tiếp đến QTDH như đường lối, quan điểm chính trị, chiến lược giáo dục của nhà nước và xã hội, những quy luật về tâm lý sư phạm và tri thức xã hội. Nó bị chi phối bởi nhu cầu xã hội.
Điều kiện bên trong là điều kiện tác động trực tiếp đến quá trình dạy học và xảy ra chính trong quá trình đó như cơ sở vật chất của cơ sở đào tạo, thái độ, năng lực của GV, mối quan hệ giữa HS và GV, khả năng của HS.n
h) QTDH là một quá trình điều khiển và điều chỉnh của GV kết hợp với quá trình tự điều khiển và tự điều chỉnh của HS
Quá trình này đòi hỏi phải được quản lý của thầy và tự quản lý của HS nhằm tạo nên
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đường liên hệ xuôi và đường liên hệ ngược. Làm cho QTDH trở thành một chu trình khép kín (xem hình dưới).
Mục tiêu DH Nội dung



Hình5. Điều chỉnh trong quá trình dạy học
    
Trong QTDH, thông qua việc kiểm tra của thầy đề ra và sự tự kiểm tra của HS, họ có thể phát hiện được những ưu điểm và thiếu sót của mình để tự điều chỉnh như tự khắc phục thiếu sót và phát huy những ưu điểm. Ngoài ra khi tranh luận, trao đổi ý kiến với bạn bè, tập thể HS cũng có thể tự kiểm tra lại kiến thức đã nắm và tự điều chỉnh việc học tập của mình.

III. NHIỆM VỤ CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
 1. GIÁO DƯỠNG HỌC SINH
Làm cho HS nắm vững hệ thống tri thức văn hóa, khoa học kỹ thuật, kỹ năng kỹ xảo lao động nghề nghiệp (người ta còn gọi là nhiệm vụ dạy nghề)
Chức năng giáo dưỡng bao gồm việc tiếp thu các tri thức khoa học, hình thành các kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nghề nghiệp.
Tri thức khoa học bao gồm các sự kiện, khái niệm, quy luật, lý thuyết ... liên quan đến nghề nghiệp. Các kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp bao gồm các kỹ năng, kỹ xảo đặc thù của nghề tương ứng. Kết quả của giáo dưỡng là tạo ra các năng lực hoạt động nghề nghiệp cho HS.
2. GIÁO DỤC HỌC SINH
Đồng thời với giáo dưỡng, QTDH còn thực hiện chức năng giáo dục, hình thành cho HS thế giới quan, quan điểm đạo đức, niềm tin, lòng mong muốn, hành vi ứng xử và hoạt động thích hợp trong xã hội.... Nghĩa là một tổng thể phẩm chất nhân cách tiêu biểu cho xã hội (người ta còn gọi là nhiệm vụ dạy làm người)
Thực hiện chức năng giáo dục bắt nguồn hữu cơ từ chính nội dung, phương pháp, phương tiện, nhưng đồng thời cũng từ sự giao tiếp, giao lưu giữa GV và HS.
Thực chất chức năng giáo dục của dạy học là chức năng làm cho quá trình dạy học mang tính mục tiêu và có tính giá trị của xã hội nhất định.
3. PHÁT TRIỂN HỌC SINH
Dạy học là tạo điều kiện cho sự phát triển cá nhân như năng lực nhận thức và năng lực hành động, năng lực giải quyết vấn đề sáng tạo, năng lực tự học, tự thích ứng (người ta còn gọi là nhiệm vụ dạy phương pháp).
Nhiệm vụ phát triển sẽ có hữu hiệu hơn nếu có phương hướng rõ ràng lôi cuốn HS vào những loại hình hoạt động có tác dụng phát triển sự cảm thụ và lĩnh vực vận động trí tuệ, ý chí, cảm xúc, động cơ của cá nhân HS.
Cần nhấn mạnh rằng dạy học bao giờ cũng mang tính phát triển cá thể người học nhưng chúng ta chưa định hướng rõ rệt các phương pháp và nội dung dạy học theo hướng đó cho nên phạm vi những phẩm chất cần phát triển có phần nào bị thu hẹp. Với ý nghĩa đó, việc quá độ sang dạy học theo hướng phát triển có ý nghĩa là mở rộng phạm vi các ảnh hưởng phát triển, tăng cường các yếu tố sáng tạo trong hoạt động học tập.

Đặc điểm của nhiệm vụ phát triển là nó không tồn tại tự nó mà là kết quả của hai chức năng giáo dục và giáo dưỡng. Nhưng cường độ, mức độ đa dạng, chiều sâu của sự phát triển phụ thuộc vào giáo dưỡng và giáo dục.
Mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ
Cả ba có mối quan hệ mật thiết với nhau: cái này đi trước cái kia, cái kia là hậu quả của cái này, nhưng đồng thời là điều kiện tích cực hóa nguyên nhân ban đầu. Hai nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục hợp lại thành cơ sở cho nhiệm vụ phát triển.
Nhiệm vụ thứ ba đến lượt mình, sau đó tích cực hóa hai chức năng đầu. Bởi vậy cần xét đến tính biện chứng thống nhất của ba chức năng ấy khi tiếp cận đến mối quan hệ qua lại giữa chúng với nhau.
Ba nhiệm vụ cơ bản này được thực hiện bằng cách lên kế hoạch tổng thể các nhiệm vụ của bài dạy (giáo dưỡng, giáo dục, phát triển), rồi lựa chọn nội dung hoạt động của giáo viên và học sinh, kết hợp với các phương pháp, hình thức và phương tiện dạy học để giải quyết lần lượt các nhiệm vụ một cách thích hợp trong mỗi giai đoạn của bài học, cuối cùng kiểm tra, phân tích kết quả, đồng thời đánh giá tiến độ thực hiện ba chức năng trên.
IV. LOGIC CÁC KHÂU VÀ ĐỘNG LỰC CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC 

1. LOGIC CÁC KHÂU CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

Logic của QTDH là trình tự vận động hợp quy luật có hiệu quả tối ưu của học sinh dưới sự chỉ đạo của giáo viên đi từ trình độ tri thức và trình độ phát triển của học sinh khi bắt đầu nghiên cứu vấn đề đến trình độ nắm vững hoàn toàn vấn đề đó. Vậy cần phải lựa chọn và sắp xếp phối hợp theo một trình tự như thế nào để DTDH đạt hiệu quả cao và sự lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tối ưu.
QTDH là một quá trình diễn ra một cách có logic, tôn trọng các quy luật tâm lý nhận thức của HS, mặt khác xuất phát từ trình độ tri thức và trình độ phát triển của HS. Do đó, trong phạm vi một nội dung dạy học nhất định, QTDH có thể diễn ra theo nhiều kiểu, nhiều cấu trúc khác. Các thành phần của các kiểu là những giai đoạn kế tiếp nhau và gọi là các khâu của QTDH.

 QTDH gồm các khâu:
- Gây động cơ, chuẩn bị tâm lý, ý thức cho việc học tập.
- Tổ chức giải quyết các nhiệm vụ nhận thức
- Củng cố, hoàn thiện, vận dụng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
- Kiểm tra, đánh giá tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.

a) Gây động cơ, chuẩn bị tâm lý, ý thức cho việc học tập
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, được thực hiện bắt đầu bởi ý thức được đầy đủ nhiệm vụ hoạt động và xuất phát từ hứng thú đã có động cơ. Đối với hoạt động nhận thức cũng vậy, trước hết HS phải ý thức được nhiệm vụ nhận thức.
Mục tiêu chính của khâu này là gây mâu thuẩn, tạo hứng thú, nhu cầu và động cơ học tập ở HS nhằm lôi cuốn HS vào hoạt động học tập, kích thích tính tích cực, lòng ham muốn giải quyết vấn đề nhận thức.
b) Tổ chức giải quyết các nhiệm vụ nhận thức
Mục tiêu:
- Truyền đạt nội dung tri thức mới;
- Tổ chức nhận thức cho HS;
- Kích thích định hướng mục tiêu dạy học;
- Tổ chức cho HS tìm thấy tri thức mới.
Nội dung tri thức mới phải trình bày theo thứ tự logic, kết hợp với phương tiện dạy học trực quan cũng như các phương pháp thích hợp.
Để đạt được mục tiêu này giáo viên cần (yêu cầu):
- Chuẩn bị đầy đủ các tài liệu và phương tiện dạy học;
- Soạn giáo án kỹ lưỡng;
- Vận dụng nhiều phương pháp dạy học một cách hợp lí;
- Kích thích HS tích cực tiếp thu, tham gia vào quá trình tìm đến kết quả nội dung nhận
thức;
- Huy động, giải phóng các năng lực của HS.
c) Củng cố, hoàn thiện tri thức, vận dụng tri thức
Học sinh phải lưu trữ ghi nhớ những điều đã tiếp thu sao cho đầy đủ, chính xác và bền vững, khi cần lại có thể tái hiện chúng được nhanh, đầy đủ và chính xác đồng thời vận dụng nó. Muốn vậy học sinh phải được củng cố những tri thức, kỹ năng mới học thông qua sự ghi nhớ có chủ định, có kế hoạch.
Mục tiêu:
- Hệ thống hóa lại nhằm hoàn thiện tri thức
- Củng cố những điểm quan trọng
- Hình thành kỹ xảo và nâng cao năng lực nhận thức
- Vận dụng những kiến thức vừa mới tiếp thu Yêu cầu đối với giáo viên:
- Tổ chức cho học sinh luyện tập
- Hệ thống hóa
- Vận dụng tri thức mới học để giải quyết vấn đề liên quan
d) Kiểmtraviệcnắmvữngtrithứcvàkỹnăng,kỹxảonghềnghiệpcủaHS
Trong QTDH, khâu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra mối liên hệ ngược ngoài và trong để điều chỉnh và tự điều chỉnh hoạt động nhận thức của HS.
Mục tiêu:
- Tạo điều kiện ôn tập những gì đã học;
- Kiểm tra mức độ phát triển ở học sinh;
- Giúp học sinh tự đánh giá;
- Giúp giáo viên điều chỉnh, đánh giá đúng trình độ của từng học sinh; Yêu cầu đối với giáo viên:
Tổ chức kiểm tra nhận xét chất lượng, tổ chức cho học sinh tự kiểm tra đánh giá và điều chỉnh.

Các khâu của QTDH vừa trình bày trên hợp lại thành một thể hoàn chỉnh tương ứng với một giai đoạn hay một chu trình vận động trong nhiều giai đoạn hay chu trình kế tiếp, liên tục. Chúng có thể lặp đi, lặp lại và xen kẽ nhau, thâm nhập vào nhau ở mỗi giai đoạn hay chu trình đó.
Trình tự các khâu trên không phải và không thể là bắt buộc một cách cứng nhắc và không nhất thiết tất cả các khâu đó đều phải thực hiện trong mỗi tiết, một phần bài dạy.

2. ĐỘNG LỰC CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC

Động lực là sự mong muốn, sự thôi thúc, là yếu tố thúc đẩy hoạt động, làm cho hoạt động đạt mục tiêu và hiệu quả. Cũng như mọi quá trình khác, QTDH vận động và phát triển là do nó có những yếu tố thúc đẩy hay còn gọi là động lực. Như vậy, theo cách hiểu thông thường, động lực của QTDH là những yếu tố thúc đẩy QTDH hay thúc đẩy học sinh tiến hành hoạt động nhận thức trong QTDH.
Mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan đều vận động và phát triển không ngừng. Mọi sự vận động đều có nguồn gốc là sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, tức là giải quyết các mâu thuẩn cơ bản của sự vật, hiện tượng. QTDH vận động và phát triển là do các mâu thuẩn bên trong và bên ngoài của nó liên tục xuất hiện và được giải quyết. Việc nhận thức được các mâu thuẩn và giải quyết được các mâu thuẩn đó ở HS sẽ tạo nên động lực cho QTDH.
Các mâu thuẫn của QTDH gồm các mâu thuẩn giữa các thành tố cấu trúc như giữa mục tiêu, yêu cầu với trình độ hiện có của HS tạo nên các nhu cầu (xuất hiện ở HS dưới ảnh hưởng của GV) tiếp thu kiến thức kỹ năng và kỹ xảo với các khả năng thực tế thỏa mãn các nhu cầu đó.

Điều kiện để mâu thuẩn trở thành động lực:

Trong QTDH, không phải cứ có mâu thuẩn nảy sinh là tự nhiên có động lực xuất hiện (hứng thú nhu cầu...) mà phải trong những điều kiện nhất định thì động lực mới được hình thành từ mâu thuẩn đó:
(1) Trước hết mâu thuẩn phải được HS chú ý được và cảm thấy có khó khăn nhất định trong nhận thức và từ đó có nhu cầu giải quyết khó khăn nhằm hoàn thành nhiệm vụ học tập đề ra.
(2) Mâu thuẩn phải vừa sức với HS, tức là nhiệm vụ học tập mới phải ở mức độ tương ứng với giới hạn trên của vùng phát triển gần nhất của HS mà họ có thể giải quyết được với nổ lực cao nhất về trí tuệ và thể lực. Điều đó là rất quan trọng vì nếu vừa sức ở mức bình thường không có nỗ lực thì không có kích thích được tư duy, không gây được hứng thú học tập ở HS. Ngược lại nếu vấn đề ở mức độ khó quá thì sẽ dẫn đến căng thẳng và mất hứng thú.
(3) Mâu thuẩn phải xuất phát từ sự tiến triển hợp logic của QTDH, nghĩa là mâu thuẩn nảy sinh một cách tất yếu trên con đường vận động phát triển của QTDH cũng như quá trình nhận thức của HS và phù hợp với logic của nội dung bài dạy.

Khi HS ý thức được mâu thuẫn thì sẽ xuất hiện ở họ nhu cầu và hứng thú giải quyết mâu thuẩn đó. Chính vì vậy, nhu cầu và hứng thú là những thành phần chủ yếu của động lực. Khi học sinh không có nhu cầu và hứng thú thì rất thờ ơ với việc học tập. Gây động cơ học tập là một biện pháp sư phạm với mục đích khơi dậy nhu cầu và hứng thú hoạt động tích cực ở người học. Động cơ hóa học tập không chỉ là điều kiện cho sự học tập mà còn là kết quả của sự học tập.
Động cơ học tập của người học phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
- Trình độ hiểu biết và kinh nghiệm đã có
- Tính liên thông giữa nội dung dạy học mới và kiến thức đã có của người học.
- Tình huống dạy học ví dụ như: nội dung dạy học, phương tiện dạy học giáo viên sử dụng.

Động cơ học tập xuất phát từ hai loại động cơ sau đây:
(1) Nội động cơ học tập (người học tự có). Động cơ này luôn gắn với mong muốn tự có không chịu sự tác động của người khác, thí dụ có HS thì thích môn toán, còn em thì thích môn văn)
(2) Ngoại động cơ học tập (Là chịu sự tác động kích thích từ bên ngoài, thí dụ được khen thưởng, được quyền lợi nào đó...)
Khi thực hiện QTDH, GV phải chú ý đến các đặc tính và nội dung của từng loại động
cơ để tác động sư phạm tạo động lực cho người học. Đối với loại (2), GV cần gây được sự tò mò tìm hiểu nội dung dạy học mới ví dụ như:
Khơi dây tầm quan trọng của nó đối với hoạt động nghề nghiệp sau này, hay mối liên hệ của chúng đối với nội dung đã học hay sự liên thông với các môn học khác
Tạo ra các tình huống có mâu thuẩn làm tăng nhu cầu
có những biện pháp kịp thời đúng đắn để nhằm tăng động lực của người học ví dụ như lời khen ngợi, cho điểm khuyến khích.

NGUYÊN TẮC DẠY HỌC 

1-KHÁI NIỆM
Nguyên tắc dạy học là luận điểm cơ bản cần phải dựa vào khi giảng dạy những vấn đề khoa học. Luận điểm cơ bản: chỉ đạo trực tiếp việc lựa chọn nội dung và các hình thức tổ chức dạy học, vận dụng trong tất cả các khâu của QTDH cũng như trong tất cả các môn học.
Tác giả khác cho rằng, nguyên tắc dạy học là những phương hướng chung được đúc kết thành những luận điểm cơ bản, có giá trị chỉ đạo toàn bộ công tác dạy học theo đúng quy luật của QTDH

2-CÁC NGUYÊN TẮC CỤ THỂ
Việc trình bày hệ thống các nguyên tắc cũng có nhiều cách khác nhau tùy theo quan điểm của từng tác giả, có tác giả chia thành 7, hay 8 hoặc 10,...nguyên tắc. Sau đây là các nguyên tắc dạy học cụ thể
Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính thống nhất giữa giáo dục tư tưởng, giáo dục khoa học và giáo dục nghề nghiệp
Nhà trường chúng ta là nhà trường XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo sự giáo dục những con người XHCN
Nhà trường là những trường dạy nghề, không phải là nhà trường dạy nghề chung chung. Do đó việc dạy học phải đảm bảo tính nghề nghiệp, tính nghiệp vụ.
Nhà trường chúng ta là nhà trường mà ở đó có nhiệm vụ rất quan trọng là đào tạo con người theo hướng phát triển toàn diện (có tài, có đức)
Khoa học được sản sinh ra trong cuộc sống, được đút kết và rút ra những vấn đề có tính quy luật nên khoa học phải mang tính chân thực khách quan. Người dạy và người học phải tuân theo những yêu cầu của khoa học.
Khoa học phải mang tính hiện đại (cả về lý thuyết và thực hành) và những kiến thức hiện đại không phải phụ lục để chứng minh cho kiến thức khoa học. Rõ ràng, yêu cầu về mặt khoa học của hoạt động dạy học là cao: yêu cầu về kiến thức phải được sắp xếp logic, nhất quán, có tính kế thừa từ đời này sang đời khác.
Trong quá trình dạy học, những kiến thức quan trọng nhất, những điểm nút, những điểm chìa khóa phải được tập trung vào thực tiễn và tác động vào cuộc sống.
Trong quá trình dạy học, cần giảm bớt tính mô tả của giáo trình, tăng tính chủ đạo của lý thuyết và đưa lý thuyết chủ đạo cho người học.
- Phương pháp thống nhất tư tưởng và khoa học:
Truyền thụ cho người học bằng ngôn ngữ rõ ràng, cách trình bày logic, phân bố thời
gian hợp lí, nề nếp làm việc khoa học, chú trọng làm cho người học có được phương pháp khoa học mang tính chất nghiên cứu.
- Phương pháp thống nhất tư tưởng và nghề nghiệp
Chú trọng nuôi dưỡng các định hướng nghề nghiệp ngay từ đầu là điều kiện cần. Hiện
nay, nhu cầu ngành nghề đặt ra rất cấp thiết, đặc biệt là trung cấp nghề. Hoạt động dạy nghề còn chưa được chú trọng.
Nguyên tắc 2: Đảm bảo tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Lý luận và thực tiễn là hai mặt của một vấn đề, bổ sung, hổ trợ, thúc đẩy nhau cùng tiến lên. Xét dưới góc độ lý thuyết của Mac-Lenin, đó là lý thuyết và thực tiễn là hai mặt tinh thần và vật chất của quá trình nhận thức và cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, cải tạo bản thân.
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động của con người nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của xã hội trong các lĩnh vực sản xuất, văn hóa, hoạt động xã hội và trong công tác thực nghiệm khoa học.
Thông thường, lý thuyết đi trước, dùng lý thuyết để chỉ đạo thực tiễn, nhưng đôi khi thực tiễn ra trước, sau đó mới đúc kết thành lý luận.
Nguyên tắc 3: Đảm bảo thống nhất giữa dạy và học
Hai mặt này hỗ trợ lẫn nhau: nếu học mà không cần dạy thì có thể sẽ đi vào đường vòng, không hiệu quả. Dạy và học là hoạt động song hành, hoạt động dạy học là chủ đạo, còn hoạt động học là chủ động.
Tính tự giác của HS trong học tập biểu hiện ở chỗ hiểu được mục tiêu học tập, có hứng thú học tập, có ý chí đi sâu vào nội dung chứ không phải ghi nhớ máy móc.
Tính tích cực biểu hiện ở việc HS biết khắc phục khó khăn, tập trung chú ý, tăng cường sự suy nghĩ để tập trung kiến thức và tím cách giải quyết vấn đề.
Tính tích cực biểu hiện chủ yếu trong hoạt động trí tuệ, trong đó HS vận dụng, phối hợp toàn bộ các chức năng tâm lý, tự mình tiến hành các thao tác tư duy để lĩnh hội tri thức.
Tính độc lập biểu hiện ở người học luôn luôn động não suy nghĩ để nắm tri thức, không công nhận một cách cả tin bất cứ điều gì chưa hiểu bằng hiểu biết và lý lẽ của mình hoặc luôn luôn tiếp thu chân lý với óc phê phán và tinh thần hoài nghi khoa học, lật ngược lại vấn đề theo nhận thức của bản thân để tìm lại vấn đề và trên cơ sở đó hoạt động của họ mang tính sáng tạo.
Để kích thích HS học tập cùng việc làm nảy sinh nhu cầu hiểu biết vấn đề, luôn đặt HS vào tình huống có vấn đề. Giáo viên cần dự kiến những khó khăn mà HS gặp phải và đề ra những yêu cầu cao hơn, trên cơ sở đó họ rút ra những khái niệm, quy luật có cơ sở để tự phân tích vấn đề. Giáo viên cũng nên và cần giúp HS tiếp cận khoa học bằng nhiều con đường khác nhau: sản xuất, học tập.
Nguyên tắc 4: Đảm bảo tính thống nhất giữa cụ thể và trừu tượng
Cụ thể: thấy bằng giác quan. Cụ thể trong trường học là: các dụng cụ, đồ dùng dạy học vận dụng trong trường học.
Trực quan tự nhiên: giúp người học nhận thức dễ dàng (động vật, thực vật, máy móc)
Trực quan thực nghiệm: là một dạng của trực quan tự nhiên giúp HS tìm hiểu các hiện tượng, các quá trình xảy ra trong thực tế thông qua ý niệm và thực nghiệm.
Trực quan âm thanh: giúp HS học tập qua các hình tượng âm thanh (đĩa hay băng ghi âm, đĩa CD,...)
Trực quan tượng trưng và trực quan đồ thị: giúp phát triển tư duy trừu tượng cho HS. Trực quan này phản ánh quy ước khái quát qua tư duy: đồ thị, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ,... Ngoài ra GV cần sử dụng loại ngôn ngữ hình tượng để giúp HS hiểu bài và dễ liên hệ với thực tế. Nguyên tắc 5: Kiến thức vững vàng và tư duy sáng tạo
Kiến thức vững vàng là yếu tố quan trọng. Để HS có kiến thức vững vàng GV phải luôn luôn củng cố để nhớ lâu, nhớ sâu, cho HS tái hiện kiến thức và kỹ năng trong quá trình ứng dụng chúng vào thực tiễn.
Việc củng cố kiến thức và kỹ năng bằng cách GV phải tiến hành trong suốt QTDH và trong các khâu của QTDH. Đặc biệt coi trọng việc thực tập, hệ thống hóa tri thức.
GV đặt người học ở tư thế luôn có vấn đề, xử lí vấn đề, nắm vững vấn đề (“Tư duy mềm dẻo, kiến thức vững vàng”)
Nguyên tắc 6: Tính khoa học và tính vừa sức
“Vừa sức” là phù hợp với trình độ phát triển của HS trong những hoàn cảnh và tình huống nhất định. Ở mỗi trình độ, người học có những kiến thức khác nhau, việc học phải phù hợp với năng lực của mỗi người.
Nguyên tắc 7: Đảm bảo thống nhất giữa cá nhân và tập thể
HS luôn nằm trong một khuôn khổ nhất định, trong một nhóm, một tập thể nhất định. Cho nên việc học ở trường điều chính là nhờ tác động của tập thể. Muốn giải quyết cho cá nhân thì phải chú ý đến tập thể.
Bản thân việc học lại mang tính cá nhân (không ai học thay cho ai), đặc biệt trong làm bài, thi hay kiểm tra.





0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates