SƯU TẬP NHỮNG KIẾN THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN ÂM NHẠC VIỆT NAM THỜI 4.0

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2019

Tổng kết 60 năm giáo dục mầm non Việt Nam






Hòa mình với niềm vui chung của cả nước chào mừng sự kiện trọng đại của nước ta: Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Hiệp hội thương mại Thế giới WTO, hôm nay Bộ Giáo dục và Đào tạo long trọng tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm giáo dục mầm non. Thay mặt lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tôi xin điểm lại chặng đường 60 năm vẻ vang xây dựng và trưởng thành của bậc học rất đáng trân trọng này.






Có một điều hết sức thú vị là sau khi giành được độc lập từ tay thực dân, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trước khi ban hành sắc lệnh về việc thành lập ngành học sư phạm thì ngày 10 tháng 8 năm 1946 lịch sử đã chứng kiến sự ra đời của giáo dục mầm non bằng sắc lệnh số 146/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sắc lệnh đã nêu lên những nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục mới, trong đó ghi rõ: “bậc học ấu trĩ nhận giáo dục trẻ em dưới 7 tuổi và tổ chức theo điều kiện của Bộ Quốc gia giáo dục ấn định sau”. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi: “Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho những người mẹ của trẻ em, đảm bảo phát triển các nhà đỡ đẻ, các nhà trẻ và vườn trẻ”. Từ đó, khi chuẩn bị chương trình cải cách giáo dục lần thứ I, Bộ cũng đã xác định: “Bậc học ấu trĩ đảm nhận việc giáo dục tổ chức hay kiểm soát”. Từ đó, ngày 10 tháng 8 hàng năm đã trở thành ngày kỷ niệm thành lập giáo dục mầm non của ta.






Quá trình hoạt động và trưởng thành của giáo dục mầm non 60 năm qua đã phấn đấu theo lòng mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước ta. Giáo dục mầm non đã gắn bó với sự phát triển của đất nước, trải qua các thời kỳ kháng chiến, kiến quốc và cùng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách.






Cùng với Ban Giáo dục ấu trĩ được thành lập ngày 15/12/1945, trường mẫu giáo Tây Hồ ngoại thành Hà Nội chỉ có 20 cháu do các nhân sĩ tổ chức được coi là trường đầu tiên của giáo dục mầm non sau cách mạng thánh 8. Tiếp theo là các trường mẩu giáo Bách Thảo làng Ngọc Hà, các trường thuộc liên khu IV cũ…; cuộc khách chiến chống Pháp rộng mở, ngày càng ác liệt cũng là giai đoạn giáo dục mầm non dần dần phát triển trong gian khó ở nhiều nơi thời kỳ 1946 – 1954. Tuy còn sơ khai và nhiều bỡ ngỡ nhưng ở Việt Bắc, Trung du, đồng bằng Bắc Bộ, Liên khu IV…đều có các lớp ấu trĩ viên, lớp vỡ lòng, các nhà trẻ, nhiều nơi còn mở Dục Anh viện, Cô nhi viện để nuôi dạy con liệt sĩ, thương binh và gia đình quân nhân không nơi nương tựa. Ngay trong vùng chiến khu kháng chiến rất khốc liệt, trại trẻ Phja Khao – Bắc Kạn (Kheo Khao), trại Nhi đồng miền Bắc được thành lập; các khóa huấn luyện học viên mẫu giáo, ấu trĩ cũng được đẩy mạnh. Tới cuối năm 1948 đã có 200 cô mẫu giáo, mở trên 300 lớp ấu trĩ thu hút hàng chục nghìn cháu đến lớp. Ngày 02/01/1949 Bộ Quốc gia giáo dục đã tổ chức hội nghị mẩu giáo toàn quốc đầu tiên trong lịch sử mầm non nước ta tại thôn Ngòi, xã Mỹ Lâm, huyện Yên Sơn, Tuyên Quang. Hội nghị đã định rõ hơn mục đích, phương châm, phương pháp giáo dục mẫu giáo, những quan điểm về giáo dục trẻ thơ tại hội nghị này đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị cơ bản. Cùng với tháng lợi của cuộc kháng chiến anh dũng chống Pháp của dân tộc, giáo dục mầm non trong giai đoạn này đã từng bước vược qua bỡ ngỡ ban đầu, trưởng thành trong khó khăn, khẳng định tính đúng đắn của đường lối và giá trị thực tiễn của nó trong sản xuất, chiến đấu.






Khi hòa bình lập lại, Miền Bắc bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Lúc bấy giờ khởi xướng phong trào giáo dục mầm non chính là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ đã chủ động phối hợp với ngành giáo dục tích cực gây dựng và phát triển bậc học dành cho trẻ nhõ với mục đích là bảo vệ trẻ thơ cùng các bà mẹ. Các trại nhi đồng miền Bắc và trẻ Phja Khao được chuyển về Hà Nội và mở thêm trại trẻ nhi đồng miền nam ở Thái Hòa ấp; cùng với thành lập Phòng mẫu giáo tại Bộ giáo dục, phong trào mẫu giáo trên miền Bắc đã có bước phát triển. Cuối năm 1964, đã tổ chức 4.944 lớp mẫu giáo, 5.682 giáo viên, với 149.000 trẻ đến lớp trên khắp miền Bắc.






Thời kỳ chống Mỹ cứu nước 1965 – 1975, để đáp ứng yêu cầu kháng chiến và công tác chỉ đạo ngành học, ngày 19/1/1966 Chính phủ đã ra Nghị định về nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức bộ máy Giáo dục, trong đó quy định thành lập Vụ Mẫu giáo là một trong 4 ngành học thuộc Bộ Giáo dục, giáo dục mẫu giáo và bảo vệ trẻ thơ lúc bấy giờ đã trở thành một ngành học trong hệ thống giáo dục quốc dân. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bắt đầu ác liệt, Thũ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 153/CP ngày 12/8/1966 nêu rõ: “Ngày nay công tác nhà trẻ, mẫu giáo ngày càng được coi trọng đễ bảo vệ tính mạng và sức khỏe của các cháu, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ đảm đương nhiệm vụ ngày càng nặng cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước”. Thực hiện việc chỉ thị của Thũ tướng chính phủ, các lớp mẫu giáo, nhà nhóm trẻ đã phân tán nhỏ lẻ, tránh xa các mục tiêu đánh phá của định. Phần lớn lớp học các cháu nằm sâu trong lòng đất hoặc trong các hầm chữ A rất lớn, vừa là nơi trú ẩn vừa là nơi các cô giáo tổ chức dạy học và che chở an toàn cho các cháu khi cha mẹ xa nhà. Tuy rất khó khăn nhưng cuối năm 1974 – 1975 đã có hơn 33.000 nhà nhóm trẻ, 550.000 cháu; 32.6000 lớp học mẫu giáo với 1,2 triệu cháu đến lớp. Đó là thời kỳ xây dựng cà trưởng thành trong điều kiện xây dựng Chủ nghĩa Xã Hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Giáo dục mầm non phát triển không những thể hiện tính ưu việt của miền bắc Xã Hội chủ nghĩa mà là nhu cầu phục vụ sản xuất , đời sống, làm yên lòng người ở, người đi vì cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.






Sau năm 1975, hòa nhịp với không khí chiến thắng chung của cả dân tộc, các nhà trẻ, trường mẫu giáo được xây dựng và phát triển mạnh trên cả nước Việt Nam thống nhất. Cùng với việc chỉ đạo về quy mô, chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ đã được chú trọng hơn. Đây là thời kỳ mở đầu cho việc phát triển công tác nghiên cứu, công tác đào tạo phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm phát triển của giáo dục mầm non.






Công tác nghiên cứu khoa học nuôi dạy trẻ được đặt ra ngay từ khi thành lập ủy Ban bảo vệ bà mẹ trẻ em (1971) nhưng được đẩy mạnh vào thời gian này; bao gồm các nghiên cứu khởi đầu về khoa học chăm sóc giáo dục trẻ trên các mặt tâm sinh lý, chăm sóc nuôi dưỡng, phát triển ngôn ngữ, xây dựng chương trình chăm sóc giáo dục trẻ với các nội dung, phương pháp và cơ sở vật chất phù hợp phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi phát triển của trẻ. Những nghiên cứu cải cách mẫu giáo từ năm 1978 – 1986 được mở rộng tới cả lĩnh vực sức khỏe, dinh dưỡng và gắn kết với thực nghiệm trên trẻ. Cho đến ngày nay, Trung tâm nghiên cứu Chiến lược và Chương trình giáo dục với đội ngũ và lĩnh vực nghiên cứu của mình, đang đóng góp vai trò lớn hơn cho phát triển giáo dục mầm non giai đoạn đã qua cũng như thời gian sắp tới.






Với việc thành lập và hoạt động tích cực của các trường Trung học nuôi dạy trẻ, trường sư phạm mẫu giáo Trung ương của 3 miền từ năm 1972, tiền thân của các trường Cao đẳng sư phạm nhà trẻ mẫu giáo hiện nay, đã hỗ trợ đắc lực cho công tác xây dựng đội ngũ. Các trường sư phạm nhà trẻ, mẫu giáo trung ương kết hợp với hệ thống các trường sơ cấp thuộc các tỉnh, thành phố, hằng năm đã đào tạo hàng ngàn giáo sinh trung cấp, 5.000 – 6.000 sơ cấp và 30.000 – 50.000 giáo viên được bồi dưỡng những kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ ngày càng cập nhật để cung cấp cho hệ thống giáo dục mầm non cả nước.






Nhiều phong trào về 4 nguồn thu, về 3 mục tiêu trong tổ chức ăn cho trẻ, về thực hiện chương trình cải tiến trong các nhà trẻ, lớp mẫu giáo được phát động và duy trì có kết quả. Các hợp tác xã, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp, Hội Phụ nữ, bản thân giáo viên và nhân dân trong thiếu thốn vẫn đều hết sức ủng hộ trường, lớp mầm non. Kết hợp với những ưu tiên các chế độ nhu yếu phẩm (đường, sữa, dầu thực vật) để phực hồi sức khỏe về tiếp nhận viện trợ sau chiến tranh, đã tạo nên sức thu hút trẻ đến trường, đến lớp thời kỳ này. Những cố gắng trên cùng với nỗ lực của công tác chỉ đạo phát triển nhà trẻ mẫu giáo trên cả nước, đến cuối năm 1986, tuy chưa bao phủ hết trên toàn quốc nhưng trong hệ thống đã có 40.579 nhà, nhóm trẻ, 57.204 lớp mẫu giáo; trên 153.000 giáo viên; 2.782.178 cháu đến lớp.






Tuy có nhiều thành tựu trong thời kỳ này về tỉ lệ huy động trẻ và bước đầu phát triển chế độ chính sách, nhưng sự phát triển dựa trên quyết tâm và ý chí, bao cấp một thời, không mang sức sống tự thân, chứa đựng nhiều yếu tố bấp bênh. Khi Nhà nước xóa bỏ cơ chế bao cấp, giáo dục mầm non đã đứng trước nhiều thử thách lớn. Trong 5 năm cuối những năm 1980 của thế kỷ trước, hệ thống nhà trẻ, mẫu giáo tan rã hàng mảng, giảm hẳn gần 1 nửa số trẻ nhà trẻ, hơn 1/3 số trẻ mẫu giáo. Mức giảm bình quân năm là 34.949 cháu. Trường, lớp, cơ sở vật chất tiêu điều, một số tỉnh không còn nhà trẻ, mẫu giáo. Giáo dục mầm non lâm vào tình thế bị động, chống đỡ.






Nhưng cũng hai mươi năm đổi mới, từ 1987 đến nay, được sự quan tâm của Đảng, giáo dục mầm non đã từng bước vượt lên trên thử thách, thể hiện một bản lĩnh phi thường để tồn tại, xây dựng và phát triển.






Sự vượt lên trước hết trong tư duy mới về giáo dục mầm non: Đó là giáo dục mầm non phải thống nhất về công tác chăm sóc, giáo dục và phù hợp với cơ chế mới: cơ chế thị trường.






Thực hiện tư duy này, tiếp theo là sự thống nhất về mặt tổ chức từ trung ương đến cơ sở đã tạo ra một sức sống mới: Các trường mầm non – hợp nhất 2 độ tuổi nhà trẻ, mẫu giáo ra đời, bổ sung cho sự phát triển biệt lập tồn tại đã nhiều năm. Sự cố gắng tìm kiếm và chuyển hướng trong cơ chế mới đã dẫn tới đổi mới trong công tác quản lý, chỉ đạo, hình thành một chủ trương phát triển đúng đắn: Phát triển đa dạng các loại hình giáo dục mầm non, giữ vững số nhà trẻ hiện có, chỉ phát triển mẫu giáo nơi có nhu cầu và điều kiện, ưu tiên phát triển mẫu giáo 5 tuổi. Chủ trương sáng suốt đó như một ngọn đèn diệu kỳ soi rọi, từ vùng nông thôn đến thành thị, từ miền núi xa xôi đốn hải đảo, cách làm mới về giáo dục mầm non đã dần dần đẩy lùi được sự giảm sút về số lượng, đến cuối thập kỷ 90 đã có sự tăng trưởng, chất lượng chăm sóc giáo dục chuyển biến theo chiều hướng tốt, tìm ra và phát huy được những nhân tố tích cực trong tổ chức chỉ đạo, quản lý phát triển giáo dục mầm non. Đặc biệt với chủ trương phát triển đa dạng các loại hình giáo dục mầm non, đã tạo ra các mô hình mới bước đầu thích ứng với cơ chế thị trường để phát triển: đó là các mô hình mầm non Tam Cường, Hải Phòng: mô hình các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo gia đình ở các tỉnh, thành phố như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, TP. Hồ Chí Minh…; lớp mẫu giáo trong các nhà thờ tại Hà Nội, Đăc Lăk, TP. Hồ Chí Minh… từ đây các loại hình trường bán công, dân lập, tư thục với những quy mô khác nhau hình thành và phát triển bên cạnh các trường công lập. Các mô hình này đã góp thêm cơ sở thực tiển để Đảng và Nhà nước ta phát triển lý luận Xã hội hóa giáo dục, và lĩng vực sự nghiệp khác. Việc khuyến khích xã hội hóa đã thu hút được một bộ phận nhân dân và cộng đồng bỏ vốn lớn để đầu tư xây dựng trường mầm non. Gần đây, một số trường tư thục đã đạt chuẩn quốc gia. Đặc biệt, có địa phương đã phát triển mầm non tư thục với tỉ lệ hơn 40% tổng số trường mầm non của tỉnh. Phổ biến kiến thức đến các gia đình được xem là một hình thức rất quan trọng của giáo dục mầm non. Một số địa bàn ở miền núi, vùng sâu đã có giáo viên, cán bộ phụ nữ và y tế thôn bản đến các gia đình để phổ biến kiến thức.






Việc chủ động xây dựng các chiến lược phát triển giáo dục mầm non qua các giai đoạn 1991 – 2000, 2001 – 2010, xây dựng các dự án, chương trình kế hoạch giáo dục mầm non trong chiến lược phát triển giáo dục thể hiện một bước tiến mới trong công tác quản lý, chỉ đạo phát triển giáo dục mầm non. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2001 – 2010, được Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt với các mục tiêu giáo dục mầm non là: “Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở để trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ; mở rộng hệ thống nhà trẻ và trường mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt nông thông và những vùng khó khăn, tăng cường cá hoạt động phổ biến kiến thức và tư vấn nuôi dạy trẻ cho các gia đình”. Như vậy là lần đầu tiên trong những năm đổi mới , mục tiêu phát triển nhà trẻ mẫu giáo trên mọi địa bàn dân cư, vùng nông thôn và vùng khó khăn được khẳng định, hơn nữa từng bước nhận ra việc tập trung nguồn lực nhà nước cho các vùng khó khăn được xem là nhu cầu chính đáng, bức thiết.






Thông qua việc xây dựng và tìm kiếm giải pháp thực hiện này, kể từ năm 1990, giáo dục mầm non được nhìn nhận, hoạch định trong một giai đoạn đáng kể 1 cách có căn cứ, hình thành tư duy phối hợp giữa các Bộ, ngành, giữa các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền và đặc biệt là phát huy vai trò của nhân dân tự mình vượt qua tư duy bao cấp, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho giáo dục mầm non.






Quá trình phát triển giáo dục mầm non hai mươi năm cũng là quá trình đổi mới lấy chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ làm yếu tố hàng đầu trong phát triển giáo dục mầm non. Đó là quá trình liên tục chỉ đạo thực hiện các chuyên đề về Lễ giáo, chuyên đề tổ chứ hoạt động âm nhạc, chuyên đề vệ sinh, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm, chuyên đề tạo hình, chuyên đề làm quen với chữ cái, với văn học…, có thể nói rằng mỗi một chuyên đề là một giai đoạn nỗ lực chỉ đạo trọng tâm về một lĩnh vực chuyên môn; chuyên đề luôn thu hút sự cố gắng của tập thể giáo viên, cán bộ quản lý, của bản thân trẻ em, sự quan tâm của các cấp chính quyền, thu hút nguồn lực và sự giúp đỡ các đoàn thể và các bậc cha mẹ để không ngừng nâng cao chất lượng chuyên môn cho trẻ. Đó là quá trình từng bước đổi mới hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ trong các lớp mẫu giáo ở các độ tuổi khác nhau, nhằm tạo tiền đề cần thiết cho việc nghiên cứu đổi mới chương trình. Nội dung và phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ theo hướng hiện đại, tích cực hóa cá nhân trẻ nhằm giúp trẻ phát triển trên các lĩnh vực: Thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, xã hội trong một không gian gần gữi, sống động với trẻ em. Đó là quá trình mở rộng sự hợp tác lâu dài, sâu rộng với các tổ chức: UNICEF, UNESCO và các tổ chức phi chính phủ trong việc hỗ trợ địa phương xây dựng cơ sở vật chất, trường, lớp, trang thiết bị và hỗ trợ nâng cao kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ giáo viên; đặc biệt tại các vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc. Là quá trình giáo dục mầm non Việt Nam học hỏi, trao đổi chuyên gia, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật những lý thuyết và kiến thức mới của các nền giáo dục khác nhau, từng bước chủ động trong hội nhập quốc tế.






Cũng từ khi chuyển đổi cơ chế sang vận hành theo nền kinh tế thị trường, chúng ta đã làm rõ hơn chính sách phát triển giáo dục mầm non, chế độ chính sách cho giáo viên mầm non, đặc biệt chế độ, chính sách đối với giáo viên mầm non ngoài công lập được đặt ra một cách nghiêm túc nhất. Trong giao thời chuyển đổi và bước đầu thực hiện theo cơ chế mới, những chậm trễ về chính sách xã hội, chế độ chính sách đồi với giáo viên mầm non trong một thời gian dài là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự xuống cấp của giáo dục mầm non. Đảng, nhà nước đã kịp thời chuyển huớng cho xây dựng và thực hiện các chế độ, chính sách đối với giáo viên, đặc biệt là giáo viên ngoài công lập. Do đó, chính sách tuyển dụng, bố trí, đãi ngộ ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho việc phát triển đội ngũ. Sau khi có Quyết định số 161/2002/QĐ-TTG của Thủ tường Chính Phủ, chế độ chính sách đối với giáo viên ngoài biên chế đã có bước tiến lớn. Thu nhập và mức sống của giáo viên được cải thiện ở nhiều tỉnh, thành phố: trên 9.930 giáo viên được ký kết hơn hợp đồng lao động với thu nhập bình quân từ 290.000 – 350.000 đồng / tháng. Trên 70% giáo viên ngoài biên chế được tham gia BHXH, BHYT ở mức độ khác nhau.






Đã có nhiều tấm gương giáo viên tiêu biểu vượt lên khó khăn của hoàn cảnh, đời sống, tận tình chăm sóc giáo dục các cháu trong từng bản làng, các vùng miền, nhiều báo cáo điển hình được cả nước biết đến tại các hội nghị truyền thống của ngành. Lịch sử vinh danh các chị, các anh thuộc các thế hệ đã không tiếc tuổi xanh và sức lực của mình đặt nền móng xây dựng và phát triển giáo dục mầm non. Nhân dân ở các vùng mãi ghi nhớ tên tuổi của những cán bộ, giáo viên mầm non vượt qua các nỗi niềm riêng tư, không quản những thiệt thòi của cuộc sống cá nhân. Lăn lộn quên mình vì tồn tại, lớn mạnh của phong trào giáo dục mầm non. Sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, giáo viên trong duy trì, phát triển, và chăm sóc giáo dục các cháu qua các giai đoạn lịch sử đã khẳng định rõ vai trò của giáo dục mầm non, làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ rằng giáo dục mầm non không đơn thuần là nơi trông giữa trẻ, mà là môi trường để cho trẻ em phát triển toàn diện về mọi mặt, là nơi dung dưỡng cơ hội phát triển nhanh nhất đầu tiên của cuộc đời, là cơ sở đầu tiền hình thành nhân cách và phát triển nguồn lực con người, thực sự là một nhu cầu dân trí trong 20 năm đổi mới. Sự nỗ lực đó đã đưa giáo dục mầm non đến một kết quả làm nức lòng người . Mạng lưới trường, lớp phát triển tương đối rộng khắp và chất lượng được nâng cao. Cuối tháng 6/2006 hầu hết các tỉnh, thành phố đã có đề án quy hoạch phát triển giáo dục mầm non đến năm 2010 được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phê duyệt để thực hiện. Nỗ lực đó cuối năm 2004 không những đã xóa hoàn toàn 218 xã trắng về giáo dục mầm non mà còn làm tăng thêm 5.625 lớp, tạo điều kiện thêm cho 166.755 cháu ở vùng đặc biệt khó khăn được đến lớp.






Đến cuối năm 2005 – 2006, giáo dục mầm non thuộc hệ thống giáo dục quốc dân đã có 11.009 trường mầm non với 129.508 lớp, 160.172 giáo viên với 2.879.054 trẻ em, chiếm 18% số cháu trong độ tuổi nhà trẻ và 67% số cháu mẫu giáo ra lớp: Trên 94% trẻ 5 tuổi được đến lớp. Trong hệ thống đó, có gần 800 trường mầm non được công nhận đạt chuẩn quốc gia giai đoạn 2001 - 2005. Trẻ em đến trường, các chỉ tiêu về thể lực, về nhận thức đều vượt trội so với cháu chưa có cơ hội đến trường, tỉ lệ sẻ suy dinh dưỡng năm 2004 – 2005 giảm xuống dưới 13%.






Cơ sở pháp lý để giáo dục mầm non phát triển trong thời gian và sắp tới là: Tư tưởng phát triển giáo dục mầm non được ghi trong các văn kiện Đại hội Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, các luật Giáo dục, Luật Bảo vệ chăm sóc, giáo dục trẻ em; Chỉ thị 18/2002/CT-TTG của Thủ Tướng Chính phủ về một số biện pháp cấp bách xây dựng động ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục quốc dân, rồi Quyết định số 161/2002/QĐ-TTG về một số chính sách phát triển giáo dục mầm non, đặc biệt gần đây nhất Chính phủ đã dành hẳn một phiên họp chính phủ để bàn về chiến lược phát triển giáo dục mầm non và đến ngày 23/6/2006 Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số 149/2006/QĐ-TTG phê duyệt đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006 – 2015; Những văn bản này đã ra đời cùng thời với việc Đảng và Nhà nước ta chú trọng đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền thể hiện sự quan tâm sâu sắc của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho sự phát triển giáo dục mầm non một cách có hệ thống, lâu dài và bền vững.






Trước thời điểm lịch sử và vận hội mới của đất nước khi chuẩn bị gia nhập WTO, Giáo dục mầm non trong những năm tới sẽ phấn đấu để đạt được các mục tiêu mà Đảng và nhà nước giao cho như sau:






1. Xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý đủ về số lượng , được đào tạo đạt chuẩn.Phấn đấu để có 80% giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo năm 2010 và 100% năm 2015, trong đó có 8% đạt trình độ trên chuẩn năm 2010 và 15% năm 2015. Ngoài chuẩn về chuyên môn cần quan tâm và dành thời gian để lãnh đạo chỉ đạo đội ngũ rèn luyện phẩm chất của nhà giáo của người làm công tác giáo dục thế hệ trẻ một cách trực tiếp, đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực dân chủ cơ sở.






2. Củng cố mở rộng mạng lưới, lớp, bảo đảm nhu cầu trẻ của các cơ quan, đơn vị có các bà mẹ lao động cũng như tạo điều kiện để các bà mẹ chăm sóc trẻ dưới 12 tháng, khắc phục cơ bản sự chênh lệnh về phát triển giáo dục mầm non giữa các vùng miền.Đối với trẻ dưới 3 tuổi, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu gửi trẻ tại các nhà trẻ, nhóm trẻ từ 15% năm 2005 lên 20% năm 2010 và 30% 2015. Đối với trẻ từ 3 – 5 tuổi, tăng tỉ lệ trẻ đến trường, lớp mẫu giáo từ 58% năm 2005 lên 67% năm 2010 và 75% năm2015. Tăng tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đến lớp mẫu giáo để chuẩn bị vào lớp 1, từ 92% năm 2005 lên 95% năm 2010 và 99% năm 2015.






3. Nâng tỷ lệ các cơ sở giáo dục mầm non đạt chuẩn quốc giatừ 9% năm 2005 lên 20% vào năm 2010 và 50% vào năm 2015.






4. Chính quyền địa phương ở các vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo cần đầu tư ngân sách xây dựng các trường mầm non quốc lập để phát triển vững chắc về quy mô, và các yêu cầu cơ bản về chất lượng:Nâng tỷ lệ trẻ từ 3 đến 5 tuổi đến lớp mẫu giáo đạt 43% năm 2005 lên 55% năm 2010 và đạt 62% năm 2015. Phấn đấu để tỉ lệ trẻ 5 tuổi ở các vùng này đến lớp mẫu giáo đạt bằng tỉ lệ chung của toàn quốc. Từ năm 2006 đến 2010 đầu tư kinh phí để đào tạo và bồi dưỡng đạt trình độ chuẩn cho khoảng 3000 giáo viên, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo các tiêu chí đạt chuẩn cho khoảng 2500 cơ sở giáo dục mầm non ở các vùng này.






5. Nâng chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non. Ở đây cần tạo điều kiện cho trẻ phát triển tư duy, sáng tạo thông qua học tập, vui chơi và làm quen với cách học mới.Chú ý đến vấn đền dinh dưỡng và an toàn cho trẻ. Phấn đấu tỉ lệ trẻ đạt chuẩn phát triển là 80% vào năm 2010 và 95% vào năm 2015, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở các cơ sở giáo dục mầm non xuống 12% vào năm 2010 và dưới 10% vào năm 2015.






6. Tăng tỷ lệ các bậc cha mẹ có con ở lức tuổi mầm non được cung cấp và áp dụng kiến thức, kỹ năng cơ bản về nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ,và đạt 70% vào năm 2010 và 90% vào năm 2015.






Tóm lại:Với truyền thống 60 năm qua của giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân, có lẽ không một ai trong số nhà giáo mầm non lai không tự hào về sự phát triển của mạng lưới cùng sự tăng trưởng về số lượng trẻ đến chất lượng của đội ngũ nhà giáo. Nhiều người cũng đã tự hào mà nói rằng giáo dục mầm non của chúng ta là nề nếp nhất, kỷ cương nhất, và cùng chịu đựng gian khổ nhất. Tuy nhiên, chính trong nề nếp và kỷ cương thì dễ dẫn tới tình trạng máy móc, gia trưởng và thiếu tính phản biện. Mong rằng đây là một dịp tốt để toàn ngành chúng ta cùng tự hào, cùng cố gắng khắc phục những hạn chế và phấn đấu tốt hơn nữa. Đội ngũ chúng ta vì yêu nghề và yêu trẻ, và đã chọn nghề sư phạm nên đã tìm ra phương pháp tốt nhất mà dẫn dắt các cháu theo mục tiêu giáo dục đào tạo con người Việt Nam theo Luật Giáo dục, cũng như theo tinh thần Nghị quyết Đại hội toàn quốc, lần thứ X của Đảng. Đặc biệt là đội ngũ giáo dục mầm non sẽ phấn đấu làm theo lời dạy của Bác Hồ kính yêu của chúng ta “Làm mẫu giáo là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó nuôi dậy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”.






Nhiệm vụ các năm tới vì sự nghiệp giáo dục mầm non còn rất nặng nề nhưng rất vẻ vang, chúng ta tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong điều kiện mới, trong vận hội mới; phát huy truyền thống vẻ vang 60 năm qua, toàn thể chúng ta vững tin hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao cho nhằm phát triển giáo dục mầm non lên một tầm cao mới, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng và Bác Hồ, xứng đáng với sự tin tưởng của nhân dân và các thế hệ đi trước.






Bộ Giáo dục và Đào tạo


Nguồn Vụ giáo dục mầm non.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates