SƯU TẬP NHỮNG KIẾN THỨC CẦN THIẾT CHO GIÁO VIÊN ÂM NHẠC VIỆT NAM THỜI 4.0

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites More

Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2019

Xướng âm trong âm nhạc (Solfege)

Xướng âm (Solfège ) để làm gì?


Xướng âm là một thuật ngữ có gốc từ tiếng Pháp - solfège. Thuật ngữ này xuất phát từ hai từ chỉ cao độ là Sol và Fa được dùng để ám chỉ việc đọc (hay hát) nốt nhạc theo hệ thống các từ chỉ cao độ. Trong cuốn, Phương pháp xướng âm Nhà xuất bản Hà Nội (1980), nhạc sĩ Doãn Mẫn cho rằng xướng âm là môn học đọc các dấu nhạc thành điệu. Tuy nhiên, ngoài việc nhìn và đọc nốt nhạc chúng ta còn phải “xướng” đúng cao độ và tiết tấu của bản nhạc. Vậy, học xướng âm là học những phương pháp để đọc và hát đúng nhịp điệu, đúng cao độ, trường độ, sắc thái mạnh, nhẹ bằng giọng người theo các dấu hiệu đã được ghi trong bản nhạc. Có thể ví xướng âm như là cách mà chúng ta đọc chính tả vậy.


Xướng âm là quá trình giúp cho người học rèn luyện khả năng nghe nhạc, cách xác định và ghi nhớ cao độ âm thanh cũng như đọc đúng cao độ và tiết tấu của tác phẩm. Khi đọc nốt nhạc, chúng ta sử dụng bảy từ để đọc cao độ nốt nhạc: đô, rê, mi, fa, son, la, si. Hiện nay có hai phương pháp trong xướng âm là phương pháp cố định (fixed do) và phương pháp bất định (movable do).

Phương pháp "Đô cố định" (fixed do) là dùng các từ chỉ cao độ cố định với cao độ mà nó áp dụng, chẳng hạn, từ “Đô” chỉ được dùng với cao độ của nốt C mà thôi. Với phương pháp này thứ tự các từ chỉ cao độ ứng với nốt nhạc như sau: Đô – C; Rê – D; Mi – E ; Fa – F; Sol – G; La – A; Si – B. Phương pháp này hiện đang được sử dụng ở Việt Nam.

Phương pháp 'Đô di chuyển" (movable do) bất định là dùng từ chỉ cao độ với các cao độ khác nhau tuỳ theo từng trường hợp. Phương pháp bất định sử dụng bảy từ chỉ cao độ và áp dụng với bất cứ giọng nào. Khi đó người ta sử dụng số bậc trong thang âm để ghi nhớ và dịch chuyển sang các giọng khác nhau.



Phương pháp này có ưu điểm là ngay lập tức có thể chơi ở nhiều giọng khác nhau nếu người sử dụng có một dải băng ghi tên các nốt nhạc và dịch chuyển mỗi khi sang giọng mới. Phương pháp này thường phù hợp với những người mới học nhạc. Khi dịch giọng khác nhau, chúng ta vẫn đọc nguyên các từ chỉ cao độ như vậy. Còn với phương pháp cố định, chúng ta phải đọc tên nốt khác nhau ở mỗi giọng. Một số người cho rằng, phương pháp bất định sẽ giúp người học nhanh tiếp cận hơn với âm nhạc. Họ nghe các nốt liên quan đến nhau căn cứ vào nốt chủ âm là Đô. Điều này tương tự như các nhạc công chơi đàn keyboard ở Việt Nam sử dụng giọng Đô cho tất cả các bài, khi muốn chuyển giọng, họ chỉ cần nhấn nút dịch giọng (transpose) cộng, trừ trên đàn. Khi đó người nhạc công vẫn tư duy tác phẩm trên giọng Đô mà không cần quan tâm âm vang thực thế ở giọng nào.

Việc dùng hệ thống phương pháp nào trong việc giảng dạy thì vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều. Hiện nay phương pháp cố định vẫn được sử dụng nhiều nhất trong các trường âm nhạc. Tuy nhiên, ứng dụng những ưu điểm của phương pháp bất định, chúng ta có thể đọc nốt nhạc với các từ cố định như “la là lá la” hay “ta tà tá ta”…để luyện tập tiết tấu mà không cần chú ý đến tên gọi của nốt nhạc.

Xung quanh khái niệm Xướng âm, chúng ta còn có khái niệm thị xướng (sight-reading). Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, thuật ngữ này là kỹ năng đọc và xướng một đoạn nhạc hay tác phẩm âm nhạc được thể hiện trên văn bản giấy mà người đọc chưa từng nhìn thấy văn bản nhạc này trước đó([1]). Thuật ngữ này được dùng để nói đến quá trình hay khả năng nhìn và đọc ngay lập tức. Đây cũng là quá trình chuyển đổi từ thông tin (nốt nhạc, ký hiệu âm nhạc..) từ dạng “nhìn” sang dạng “nghe” (Udtaisuk 2005) [3]. Ở mức độ cao hơn, người ta còn sử dụng thuật ngữ này để nói đến kỹ năng đọc nhẩm (đọc thầm) mà không tạo ra âm thanh nhạc cụ hay giọng người. Với kỹ năng này, người đọc nhìn vào văn bản nhạc và tưởng tượng cao độ ở trong đầu mà không đọc ra miệng hoặc không chơi trên đàn.

Biểu đồ Solfège hiển thị các dấu hiệu bàn tay Trong năm 1840, John Spencer Curwen đã phát triển các dấu hiệu bằng tay để đi với các âm tiết solfège (do re mi, v.v.) dựa trên Cẩm nang Sarah Glover của Hệ thống Sol Sol fa. Sau đó, người tiên phong Hungary về giáo dục âm nhạc trẻ em Zoltán Kodály, đã điều chỉnh các dấu hiệu tay một chút và tích hợp chúng vào phương pháp giảng dạy của mình.


Biểu đồ solfège này cho thấy các dấu hiệu tay. Dấu hiệu bàn tay cho phép trẻ em thực sự nhìn thấy chiều cao hoặc độ sâu của âm thanh âm nhạc. Các loại thấp do bắt đầu tại khu vực giữa của bạn. Mỗi dấu hiệu tay (cao độ) sau đó được thực hiện trên cái trước đó. Vì vậy, bạn có các dấu hiệu tay đi lên khi sân đi lên. Các cấp trên do do do tinh vi là ở tầm mắt. Việc đảo ngược được thực hiện trên đường trở xuống và điều đó khó khăn hơn một chút. Một số người có thể nói rằng các dấu hiệu bàn tay quá khó để trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi hình thành (chúng chưa có kỹ năng vận động tinh xảo) nhưng tôi sẽ lập luận rằng 1) khi bạn thực hiện các dấu hiệu tay cho em bé, bé sẽ nhận được một dấu hiệu trực quan để giúp phát triển trí nhớ của trẻ 2) Hãy thực hiện các dấu hiệu và giúp phát triển các kỹ năng vận động tinh xảo của mình. Nếu cần, bạn thậm chí có thể giúp uốn nắn bàn tay con của bạn thành hình dạng cho đến khi bé có thể tự mình xướng âm tay. 
                                                                                                                                     Sưu tầm

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Blogger Templates